Công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử đối diện nhiều khó khăn, thách thức
Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử đang đối mặt rất nhiều khó khăn và thách thức. Các khó khăn thách thức này có thể kể đến, bao gồm: Thứ nhất, các doanh nghiệp ngành điện tử đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn do sự phát triển quá nhanh của công nghiệp 4.0 nên buộc doanh nghiệp phải phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo.
Thứ 2 nếu như trước đây, nhân công giá rẻ được xem là lợi thế thì nay điều này đã khác. Cùng với đó, tài nguyên thiên nhiên sẵn có cũng không còn là lợi thế nữa, do vậy đòi hỏi chúng ta phải chuyển đổi thực sự để có thể duy trì lợi thế là nơi có lực lượng lao động tay nghề cao, với mức lương xứng đáng, chứ không phải xếp cuối ở khu vực và vùng lãnh thổ châu Á trong nôi sản xuất điện tử như hiện nay.
Thêm vào đó, thách thức thứ 3 đến từ vấn đề an ninh phi truyền thống, từ biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên không bền vững... Những yếu tố này sẽ tác động mạnh tới mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Đặc biệt, trong ngành điện tử, nếu phát triển nóng thì yếu tố phát thải môi trường sẽ ảnh hưởng nhiều tới tương lai của ngành.
Một thách thức nữa là nguy cơ thiếu vật liệu, linh kiện và bộ phận hỗ trợ cho ngành công nghiệp điện tử. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn cung linh kiện từ các quốc gia và vùng lãnh thổ truyền thống như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan…
Tốc độ chuyển đổi số của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ điện tử còn chậm
Trong khi năng lực sản xuất trong nước còn nhiều hạn chế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tháng 9/2022 tăng 0,5% so với tháng trước và giảm 2,4% so với tháng 9/2021. Tính đến hết 9 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9% so với 9 tháng đầu năm 2021.
Trong đó, mặt hàng loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa có lượng sản xuất trong 9 tháng đầu năm 2022 đạt 399,78 triệu cái, tăng mạnh nhất 133,97% so với cùng kỳ năm 2021. Ngược lại, mặt hàng thiết bị bảo vệ mạch điện khác dùng cho điện áp ≤ 1000 V chưa được phân vào đâu có lượng sản xuất đạt 4,21 triệu cái, giảm mạnh nhất 44,76% so với cùng kỳ năm 2021.
Tham khảo sản lượng sản xuất mặt hàng máy tính và linh kiện điện tử
Tên sản phẩm |
ĐVT |
Tháng 9/2022 |
So với T8/2022 |
So với T9/2021 |
9T/2022 |
So với 9T/2021 |
---|---|---|---|---|---|---|
Thiết bị điện dùng cho hệ thống đường dây điện thoại, |
Triệu đồng |
61.773.105 |
12,41 |
-26,98 |
417.730.969 |
-6,95 |
Loa đã hoặc chưa lắp vào hộp loa |
Cái |
36.221.586 |
-10,67 |
131,06 |
399.778.646 |
133,97 |
Óng camera truyền hình; bộ chuyển đổi hình ảnh |
Chiếc |
27.537.415 |
15,38 |
14,31 |
265.682.870 |
20,79 |
Dịch vụ sản xuất linh kiện điện tử |
Triệu đồng |
18.485.152 |
8,29 |
-13,79 |
135.535.382 |
8,65 |
Tai nghe không nối với micro |
Cái |
3.967.161 |
23,94 |
97,96 |
24.735.961 |
-2,92 |
Màn hình khác (trừ loại sử dụng với máy |
Cái |
1.948.332 |
3,14 |
26,80 |
16.142.141 |
18,53 |
Bộ phận của các linh kiện điện tử khác |
Kg |
1.187.954 |
13,49 |
11,94 |
8.816.044 |
-1,29 |
Máy thu hình (Tivi,...) |
Cái |
878.686 |
22,70 |
116,99 |
8.357.224 |
-12,15 |
Bộ nguồn cấp điện liên tục (UPS) dùng cho |
Chiếc |
922.405 |
9,17 |
|
8.262.719 |
17,52 |
Dịch vụ sản xuất dây, cáp điện và điện tử khác |
Triệu đồng |
940.777 |
-2,60 |
2,70 |
8.213.760 |
-8,33 |
Mạch điện tử tích hợp |
1000 chiếc |
876.572 |
10,85 |
36,40 |
6.125.394 |
-5,83 |
Thiết bị bảo vệ mạch điện khác dùng cho điện áp |
Cái |
485.187 |
-0,04 |
-47,63 |
4.211.668 |
-44,76 |
Pin khác |
1000 viên |
22.700 |
-19,79 |
-18,55 |
234.166 |
-10,48 |
Dây cách điện đơn dạng cuộn bằng đồng |
Tấn |
23.980 |
-3,37 |
-10,80 |
203.462 |
-19,14 |
Dây dẫn điện khác dùng cho hiệu điện thế ≤ 1000V |
Tấn |
18.882 |
0,28 |
25,85 |
156.858 |
6,28 |
Cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục khác |
Tấn |
10.983 |
-2,49 |
40,10 |
97.599 |
-5,85 |
Bộ phận của máy in sử dụng các bộ phận in |
Tấn |
1.069 |
5,37 |
226,79 |
9.122 |
8,54 |
Bộ phận của máy tính, máy tính tiền, |
Tấn |
95 |
-25,48 |
-34,66 |
1.097 |
-8,71 |
Ắc quy điện bằng axít - |
1000 Kwh |
61 |
43,53 |
90,54 |
387 |
28,65 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Trong khi đó, nhu cầu mua sắm và sử dụng các thiết bị máy móc, công nghệ ngày càng nhiều của người dân Việt Nam. Thị trường với sức mua của 100 triệu dân trong hiện tại và tương lai là miếng bánh thị phần triển vọng dành cho các thương nhân lớn.
Vì vậy, Việt Nam cần kịp thời điều chỉnh chính sách trong hỗ trợ doanh nghiệp, đảm bảo thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo dòng vốn FDI có chọn lọc hơn. Ưu tiên vào những lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, bền vững, có sức lan toả với nền kinh tế Việt Nam, tạo thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp Việt.
Cùng với đó, Chính phủ cần tập trung đầu tư vào các công ty đầu ngành để có thể kéo theo các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển hình thành chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp Việt. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất cần ưu tiên đầu tư vào công nghệ tầm trung và cao, tránh các công nghệ, máy móc cũ kỹ, lạc hậu.
Nguồn: Phòng TTCN
-
8 tháng năm 2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Anh đạt 34.680 tấn, trị giá 70,68 triệu USD, tăng 57,9% về lượng và tăng 84,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
-
0/09/2022 - Ngày 14 tháng 9 năm 2022, cơ quan điều tra Mê-hi-cô đã ban hành kết luận sơ bộ vụ việc điều tra chống bán phá giá với thép mạ nhập khẩu từ Việt Nam. Vụ việc được Mê-hi-cô khởi xướng từ tháng 8 năm 2021 dựa trên đơn kiện của ngành sản xuất trong nước.
-
Triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Ấn Độ, Tổng Lãnh sự quán Ấn Độ tại Việt Nam phối hợp với Hội đồng Xúc tiến Xuất khẩu Dệt tổng hợp, tơ nhân tạo – SRTEPC và Hội đồng xúc tiến xuất khẩu bông – TEXPROCIL
-
Ngày 07 tháng 9 năm 2022, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã ban hành Kết luận cuối cùng đợt rà soát hành chính thuế chống bán phá giá (CBPG) lần thứ 18 (POR18) cho giai đoạn từ ngày 01 tháng 8 năm 2020 đến ngày 31 tháng 7 năm 2021 đối với cá tra, basa của Việt Nam.