Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG – THANH TOÁN TRONG NƯỚC
Thanh khoản dồi dào, lãi suất huy động giảm
Trái ngược với quy luật hằng năm, mặt bằng lãi suất thường biến động mạnh do nhu cầu vốn phục vụ Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, thời điểm trước Tết Nguyên đán 2020, mức lãi suất huy động nhìn chung khá ổn định, thậm chí một số ngân hàng giảm lãi suất tiền gửi 0,1 - 0,4 điểm phần trăm. Trong đó, lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng đến 3 tháng được niêm yết phổ biến trong khoảng 4,3%/năm đến 4,8%/năm. Kỳ hạn 6 tháng hiện nay tại các ngân hàng phổ biến ở mức 5,3%/năm đến 7,0%/năm. Trên thị trường lãi suất bình quân liên ngân hàng, lãi suất biến động tăng/giảm tùy kỳ hạn. Ngân hàng Nhà nước hút bớt dòng tiền về. Diễn biến này cho thấy, thanh khoản toàn hệ thống ngân hàng khá dồi dào, mặt bằng lãi suất sẽ biến động theo xu hướng giảm sau kỳ nghỉ lễ.
Mặt bằng lãi suất huy động ổn định, thậm chí giảm ở một số ngân hàng
Năm 2019, mặt bằng lãi suất huy động tương đối ổn định và có xu hướng giảm sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 2415/QĐ-NHNN ngày 18/11/2019 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức, cá nhân tại TCTD theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014: lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng từ 0,1%/năm đến 0,8%/năm; lãi suất áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 4,0%/năm đến 7,0%/năm; Lãi suất áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô giảm từ 6,0%/năm xuống 5,5%/năm.
Tại một số ngân hàng thương mại, lãi suất huy động khá ổn định sau khi điều chỉnh giảm trong tuần đầu tiên tháng 1/2020.
Cụ thể, lãi suất kỳ hạn 1 đến 3 tháng được niêm yết phổ biến trong khoảng 4,3% đến 4,8%. Tại kỳ hạn này, SHB và NCB đang niêm yết ở mức lãi suất cao nhất lên tới 5%/năm, bằng với trần lãi suất huy động của Ngân hàng Nhà nước đưa ra trước đó.
Kỳ hạn 6 tháng mức lãi suất cao nhất là 7,9%/năm được áp dụng tại Ngân hàng Quốc dân (NCB), Bac A Bank là 7,7%/năm; VietBank và PVcomBank là 7,5%/năm, VPBank là 7,4%/năm (đối với tiền gửi từ 5 tỉ đồng trở lên), Vietcapital Bank (7,3%/năm).
Trong nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, Eximbank là ngân hàng có lãi suất huy động ở kỳ hạn 6 tháng thấp nhất với 5,6%/năm.
Lãi suất thấp, song các ngân hàng đang triển khai những gói ưu đãi lãi suất riêng cho những khách hàng gửi tiết kiệm các kỳ hạn tương ứng nhưng có đăng ký dịch vụ thông báo biến động số dư tiền gửi, tiết kiệm có kỳ hạn, và đăng ký 2 dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking. Với chương trình ưu đãi này, lãi suất tiết kiệm tại Eximbank lên tới 7,2% ở kỳ hạn 6 tháng và 7,4% kỳ hạn 9 tháng.
Đối với các kỳ hạn khác, mức lãi suất tiền gửi tại quầy cao nhất hiện nay là 8,4%/năm áp dụng tại Eximbank tại kỳ hạn 13 tháng, 24 tháng, 36 tháng. Trong đó, có 8 ngân hàng ghi nhận mức lãi suất tiền gửi cao nhất từ 8%/năm gồm: Eximbank (8,4% kỳ hạn 24 và 36 tháng), ABBank (8,3%/năm); VietBank, OCB, Ngân hàng Bản Việt (8,2%/năm kỳ hạn 13 tháng); Kienlongbank và Bac A Bank (8%/năm), NCB (8,3%/năm kỳ hạn 36 tháng).
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm tại quầy, các ngân hàng còn triển khai nhiều sản phẩm huy động khác. Và tại hầu hết ngân hàng hình thức gửi online được khuyến khích với lãi suất thường cao hơn so với biểu lãi suất tại quầy, mức chênh lệch thông thường khoảng 0,1 điểm phần trăm.
Riêng tại một số ngân hàng đặc biệt như SCB, lãi suất tiền gửi tiết kiệm trực tuyến lại có sự chênh lệch rõ rệt, có kỳ hạn lên đến hơn 1 điểm phần trăm. Lãi suất tiết kiệm trực tuyến cao nhất là 8,76%/năm tại SCB với kỳ hạn gửi 13, 15, 18 tháng và số tiền gửi từ 10 tỷ đồng trở lên, lĩnh lãi cuối kỳ.
Cùng với việc phải thực hiện quy định giảm trần lãi suất huy động và đảm bảo tuân thủ quy định của NHNN về giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn trong cho vay trung dài hạn đã khiến các tổ chức tín dụng phải điều chỉnh mạnh cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng vốn trung và dài hạn.
Như vậy có thể thấy, cách thức hầu hết NHTM áp dụng để đạt được mục tiêu này là tăng lãi suất huy động cho các kỳ hạn dài.
Theo đánh giá của các chuyên gia, gửi tiết kiệm hiện vẫn được coi là kênh đầu tư hấp dẫn bởi mức lãi suất cao, rủi ro thấp. Chính vì thế cạnh tranh giữa thu hút vốn giữa các NHTM khá căng thẳng. Hàng loạt chương trình tiết kiệm hấp dẫn được tung ra, từ “Tết đang về cùng bạn” của NHTMCP Bản Việt; “Tiết kiệm Đắc Lộc Phát” của NHTMCP Sài Gòn… đến “Gửi Tiền Rộn Ràng Quà, Vui Trọn Tết Vô giá” của VP Bank…
Lãi suất huy động kỳ hạn 24 tháng, 36 tháng cao nhất trên thị trường hiện nay khoảng 8% - 8,5%/năm, cá biệt có nơi lên đến 9%/năm.
Với 4 ngân hàng lớn là Agribank, Vietcombank, VietinBank và BIDV lãi suất huy động tại nhóm ngân hàng này lại nằm ở mặt bằng thấp so với các ngân hàng thương mại cổ phần. Theo biểu lãi suất mới nhất tháng 1/2020 của 4 ngân hàng lớn, mức lãi suất tiền gửi từ 1 tháng trở lên dao động từ 4,3% - 6,8%/năm. Mức lãi suất cao nhất trong nhóm là 6,8%/năm áp dụng cho các khoản tiền gửi từ 12 tháng trở lên tại Agribank, Vietcombank, BIDV và từ 24 tháng trở lên tại VietinBank.
Hiện NHNN không quy định trần lãi suất huy động kỳ hạn trên 6 tháng của các TCTD. Nếu NHTM nào có mức huy động quá cao sẽ vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, nếu NHTM tăng lãi suất huy động đột biến thông thường sẽ chỉ áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, thậm chí tại một số điểm giao dịch ấn định.
Nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần đang có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn trong tổng tiền gửi khách hàng (CASA) khá cao, lên đến 30%. Sau giai đoạn tái cơ cấu một số NHTMCP đã khẳng định được uy tín, vị thế trên thị trường.
Ngược lại, một số ngân hàng lại có động thái giảm lãi suất tiền gửi từ 0,1 – 0,4 điểm phần trăm. Ngày 21/1/2020, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam – Eximbank đã điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi kỳ hạn một tháng cho cả kênh gửi tại quầy lẫn trực tuyến từ 5%/năm xuống còn 4,6%/năm.
Biểu lãi suất của Techcombank áp dụng từ ngày 22/1/2020 cũng theo xu hướng giảm mạnh ở các kỳ hạn ngắn, đồng thời điều chỉnh lãi suất theo giá trị khoảng tiền gửi của khách hàng.
Cụ thể, người gửi tiết kiệm dưới 50 tuổi tại Techcombank kỳ hạn 1 tháng, được hưởng lãi suất cao nhất chỉ còn 4,65% mỗi năm, giảm 0,1 điểm phần trăm so với biểu lãi suất hồi đầu năm 2020. Các kỳ hạn khác cũng có mức giảm 0,1-0,2 điểm phần trăm.
Động thái trên chủ yếu là để một số nhà băng cơ cấu lại nguồn vốn huy động hợp lý hơn. Ngoài ra, hạ lãi suất đầu vào cũng là cơ hội để ngân hàng có thể điều chỉnh đầu ra, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất dịp sau Tết.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước thời gian qua chủ động điều tiết thanh khoản của hệ thống dư thừa, lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức thấp, qua đó tạo điều kiện ổn định lãi suất huy động, giảm sức ép lên lãi suất cho vay.
Theo báo cáo thị trường tiền tệ tuần đầu tháng 1/2020 của Trung tâm phân tích và tư vấn đầu tư của Công ty chứng khoán SSI, lãi suất tiền gửi ghi nhận bước giảm 30-50 điểm cơ bản với kỳ hạn trên 6 tháng ở một số ngân hàng nhỏ, qua đó thu hẹp khoảng cách với các nhóm ngân hàng còn lại. Hiện lãi suất huy động nằm trong khoảng 4,1-5% một năm với kỳ hạn dưới 6 tháng, 5,3-7,4%/năm đối với kỳ hạn 6 đến dưới 12 tháng và 6,4-7,5%/năm đối với kỳ hạn 12, 13 tháng.
Chủ trương hạ lãi suất từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục có tác động đến xu hướng lãi suất khi vừa bước sang năm mới 2020 - thời điểm các chỉ tiêu an toàn của năm 2019 đã phải hoàn tất.
Năm 2020, lãi suất huy động được đánh giá có khả năng tiếp tục hạ dựa trên 2 nền tảng là thanh khoản hệ thống ngân hàng và định hướng từ Chính phủ. Giá cả hàng hóa và thị trường ngoại hối là các biến số có thể làm nhanh hoặc chậm việc hạ lãi suất. Động thái giảm lãi suất ở kỳ hạn dài sẽ vẫn có khoảng cách giữa các nhóm ngân hàng vì định hướng giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn sẽ còn gần 3 năm nữa mới kết thúc. Tuy vậy, những diễn biến vừa qua cho thấy việc kiểm soát các ngân hàng nhỏ đã có hiệu quả, từ đó hạn chế bớt các cuộc chạy đua lãi suất trong tương lai.
Trong cuộc họp mới đây tại Thành phố Hồ Chí Minh, NHNN cho biết năm 2020 sẽ tăng cường thêm về chất lượng thanh tra, giám sát chứ không chờ thanh tra theo định kỳ. Theo đó, liên quan đến vấn đề lãi suất, nếu ngân hàng nào huy động cao cũng là đối tượng bị thanh tra. Yếu tố này đã khiến các NHTM nhà nước phải thận trọng với kế hoạch năm 2020: nguồn vốn huy động đa dạng, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo cân đối an toàn, hiệu quả.
Lãi suất huy động niêm yết tại một số ngân hàng thương mại (%)
Ngân hàng |
KKH |
1 tuần |
2 tuần |
3 tuần |
1 tháng |
2 tháng |
3 tháng |
6 tháng |
9 tháng |
12 tháng |
24 tháng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vietcombank |
0,10 |
0,50 |
0,50 |
|
4,30 |
4,30 |
4,80 |
5,30 |
5,30 |
6,80 |
6,80 |
BIDV |
0,10 |
|
|
|
4,30 |
4,30 |
4,80 |
5,50 |
5,60 |
7,00 |
7,00 |
VietinBank |
0,10 |
0,30 |
0,30 |
0,30 |
4,30 |
4,30 |
4,80 |
5,30 |
5,30 |
6,80 |
6,80 |
Eximbank |
0,30 |
0,80 |
0,80 |
0,80 |
4,60 |
4,80 |
5,00 |
5,60 |
5,80 |
7,70 |
8,40 |
ACB |
0,30 |
0,80 |
0,80 |
0,80 |
5,00 |
5,00 |
5,00 |
6,30 |
6,40 |
6,80 |
7,60 |
Sacombank |
0,30 |
|
|
|
4,90 |
4,95 |
5,00 |
6,30 |
6,40 |
6,90 |
7,30 |
Techcombank |
0,30 |
|
|
|
4,00 |
4,00 |
4,00 |
5,90 |
5,50 |
6,00 |
6,10 |
LienVietPostBank |
0,10 |
0,80 |
0,80 |
0,80 |
4,90 |
4,90 |
5,00 |
6,10 |
6,20 |
6,90 |
7,30 |
DongA Bank |
0,29 |
0,29 |
0,29 |
0,29 |
5,00 |
5,00 |
5,00 |
7,00 |
7,20 |
7,40 |
7,60 |
Agribank |
0,20 |
|
|
|
4,30 |
4,30 |
4,80 |
5,30 |
5,40 |
6,80 |
6,80 |
(Nguồn: https://thoibaonganhang.vn)
Mặt bằng lãi suất bình quân liên ngân hàng giảm
Thời điểm cận Tết, Ngân hàng Nhà nước bất ngờ hút bớt tiền về ngay trong những ngày cao điểm. Diễn biến này cho thấy, trong rất nhiều năm qua thị trường mới chứng kiến hệ thống ngân hàng trong mùa cao điểm lại chủ động về thanh khoản như hiện nay.
Ngày 17/1/2020, lãi suất bình quân liên ngân hàng tăng giảm đối với kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng với mức giảm 0,28 điểm phần trăm và 1,22 điểm phần trăm, xuống còn 3,62%/năm và 3,88%/năm. Ngược lại, lãi suất bình quân liên ngân hàng tăng đối với kỳ hạn qua đêm, 2 tuần, 6 tháng và 9 tháng, lên 2,58%/năm, 3,48%/năm, 5,41%/năm và 5,93%/năm.
Nguyên nhân khiến lãi suất bình quân liên ngân hàng giảm do Thông tư 22/2019/NHNN của NHNN có hiệu lực từ 1/1/2020 quy định giới hạn tỷ lệ LDR cho tất cả các NHTM ở mức 85%, thay thế quy định cũ là 90% cho các NHTM có vốn nhà nước và 80% cho các NHTM cổ phần.
Mặc dù Thông tư 22 quy định thời gian bắt đầu áp dụng tỷ lệ LDR mới là sau 2 năm, một số NHTM hiện có tỷ lệ LDR cao hơn mức quy định đang dần cơ cấu lại nguồn vốn, hạn chế cho vay và chuyển sang thị trường liên ngân hàng để giảm tỷ lệ này. Đồng thời, lượng tiền gửi lớn của Kho bạc Nhà nước tại các Ngân hàng thương mại cũng kéo lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh.
Lãi suất bình quân liên ngân hàng
Thời hạn |
Ngày 17/1/2020 |
So với đầu năm 2020 |
So với cuối năm 2019 |
So với đầu năm 2019 |
So với cuối năm 2018 |
---|---|---|---|---|---|
% năm |
% năm |
% năm |
% năm |
% năm |
|
Qua đêm |
2,58 |
0,14 |
1,15 |
-2,08 |
-1,33 |
1 Tuần |
2,42 |
-0,29 |
0,13 |
-2,42 |
-1,74 |
2 Tuần |
3,48 |
0,31 |
0,36 |
-1,35 |
-1,29 |
1 Tháng |
3,62 |
-0,41 |
-0,28 |
-1,74 |
-1,23 |
3 Tháng |
3,88 |
-0,03 |
-1,22 |
-1,82 |
-1,72 |
6 Tháng |
5,41 |
0,03 |
0,77 |
-0,58 |
-0,79 |
9 Tháng |
5,93 |
0,07 |
0,07 |
0,73 |
0,73 |
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Sau hơn hai tháng tạm dừng, ngày 20/1/2020, Ngân hàng Nhà nước bất ngờ có giao dịch hút ròng tiền về qua kênh đấu thầu trên thị trường mở (OMO). Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu với khối lượng trúng thầu gần 5.000 tỷ đồng. Đây là lần đầu tiên kể từ cuối tháng 10 đầu tháng 11/2019 NHNN trở lại hút bớt tiền về, sau khi có phần biến động từ thay đổi cơ chế tiền gửi Kho bạc Nhà nước vào đầu tháng 11/2019.
Với lần trở lại này, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước phát hành có kỳ hạn lên tới 91 ngày, tức là rất dài so với kỳ hạn chủ yếu chỉ 7 ngày được sử dụng trong suốt năm 2019. Điều này có nghĩa Ngân hàng Nhà nước muốn từng bước hút bớt nguồn tiền và giãn hẳn thời điểm nguồn này quay trở lại thị trường khi đáo hạn.
Mặt khác, với lượng ngoại tệ mua vào rất lớn trong năm 2019, lượng VND cung ứng dồi dào và chắc chắn sẽ cần đến nghiệp vụ trung hòa qua tín phiếu hút bớt về. Và thông thường, sau kỳ cao điểm Tết Nguyên đán, nguồn tiền nhanh chóng trở lại hệ thống và Ngân hàng Nhà nước thường phải cấp tập hút bớt tiền về ngay sau đó.
Như vậy, năm 2020, với dấu hiệu trên, có thể xem Ngân hàng Nhà nước đã sớm đi trước một bước. Điều này cũng gắn với tình huống nhà điều hành vừa và đang tiếp tục mua ròng ngoại tệ.
Nhiều năm qua, cứ cận Tết Nguyên đán, nguồn vốn chuyển đổi từ ngoại tệ sang VND để đáp ứng nhu cầu cao điểm thanh toán và chi trả thể hiện rõ. Những năm trước đó, NHNN đã phải chặn đà rơi của tỷ giá USD/VND qua nâng hoặc áp giá chặn mua USD, do nguồn cung USD bán đổi VND lớn.
Năm 2020, gắn với lượng mua vào ngoại tệ rất lớn trong năm 2019, cũng như hoạt động chuyển đổi ngoại tệ cận Tết, việc Ngân hàng Nhà nước hút bớt tiền về như trên là bất ngờ nhưng phù hợp với nguồn VND cung ứng lớn. Điều này cũng phản ánh một sự khác biệt so với nhiều năm qua: hệ thống ngân hàng đã chủ động hơn trong cân đối thanh khoản để đáp ứng nhu cầu chi trả kỳ cao điểm.
Năm 2020 có nhiều cơ sở giảm lãi suất
Sau động thái giảm lãi suất USD lần thứ 3 trong năm 2019 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), lãi suất VND tại một số ngân hàng đã giảm nhẹ. Điều này được kỳ vọng sẽ kéo lãi suất cho vay giảm thời gian tới. Việc FED liên tục cắt giảm lãi suất thời gian qua đã tác động tích cực lên thị trường ngoại hối, cũng như giảm bớt áp lực tỷ giá tiền đồng, kể cả trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm 2019.
Mặc dù còn khó khăn trong việc tiết giảm chi phí đầu vào do phải tăng huy động kỳ hạn dài ngày để tái cơ cấu nguồn vốn, đáp ứng quy định giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn tại Thông tư 19/2017/TT-NHNN, song nhiều ngân hàng đã tung ra gói tín dụng lãi suất ưu đãi để hút khách hàng cuối năm 2019. Thêm vào đó, NHNN giảm thêm lãi suất tín phiếu lần thứ ba, hiện ở mức 2,25%/năm, đây cũng là điều kiện để các ngân hàng giảm thêm lãi suất, kích cầu tín dụng trong thời gian tới. Khi chi phí đầu vào giảm, doanh nghiệp kỳ vọng lãi suất đầu ra cũng sẽ giảm theo.
Năm 2020, xu hướng chung của ngân hàng Trung ương các nước là tiếp tục giảm lãi suất cơ bản để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế khó khăn. Dự báo năm 2019 - 2020, lãi suất trên thế giới sẽ giảm 0,1 - 0,5%, đó là chưa tính đến sự leo thang trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc, mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ - Triều Tiên.
Nếu sự căng thẳng tiếp tục kéo dài, thỏa thuận giữa Mỹ và Triều Tiên được xem như là quá khứ, năm 2020 tình hình sẽ phức tạp không kém năm 2019. Khi đó, lãi suất cơ bản các nước nhiều khả năng tiếp tục giảm và một số nước cũng đang muốn giảm lãi suất cơ bản về âm. Song song với xu hướng đó, NHNN có thể sẽ tiếp tục giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay, lãi suất điều hành.
Với lĩnh vực tỷ giá, năm 2020 sẽ là năm có nhiều biến động trên thế giới, bởi ảnh hưởng và tác động của cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc mặc dù đã đạt được thỏa thuận giai đoạn 1 đầu năm 2020, song còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong bối cảnh đó, lãi suất của Việt Nam cũng bị tác động. Tỷ giá sẽ có xu hướng tăng, bởi nếu căng thẳng thương mại không được giải quyết, đồng NDT sẽ mất giá, Trung Quốc nhiề khả năng sẽ lại tiếp tục phá giá đồng NDT. Kinh tế Việt Nam đã và đang phải phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang Trung Quốc, nếu căng thẳng thương mại không giải quyết được thì khả năng tỷ giá sẽ tăng cao và không thể ổn định như trong năm 2019.
Như vậy, cùng với các yếu tố tác động bên ngoài và trên cơ sở các mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ và dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước năm 2020, năm 2020, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu bình quân dưới 4%; ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối.
Đồng thời, NHNN chỉ đạo các tổ chức tín dụng nâng cao chất lượng tín dụng; tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và người dân, góp phần đẩy lùi “tín dụng đen”; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; kiểm soát cho vay bằng ngoại tệ và có lộ trình phù hợp giảm dần cho vay bằng ngoại tệ.
Mọi thông tin Quý độc giả vui lòng liên hệ;
Phòng Thông tin Xuất nhập khẩu
- Địa chỉ: Phòng 603 Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655 đường Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
- Điện thoại: 024 3715 2584/ 371525 85/ 3715 2586 Fax: 024 3715 2574
Người liên hệ:
- Mrs Huyền; 0912 077 382 ( thuhuyenvitic@gmail.com)
- Mrs Nhuận; 0982 198 206 (hongnhuan82@gmail.com)
- Mrs Kiều Anh; 0912 253 188 (kieuanhvitic@gmail.com)
Để có thông tin đầy đủ Quý độc giả vui lòng tải mẫu phiếu đăng ký sử dụng bản tin tại đây;
Phòng TTXNK
-
Xuất khẩu hàng dệt và may mặc của Việt Nam năm 2019 đạt 39,6 tỷ USD, tăng 7,3% so với năm 2018 và hoàn thành 99,07% kế hoạch xuất khẩu của cả năm 2019
-
Theo thông tin từ Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), tại thời điểm từ ngày 1/1/2020, nhiều Công ty xi măng đã thực hiện kê khai tăng giá bán từ 20.000 – 30.000 đồng tùy chủng loại.
-
Năm 2019, dệt may Việt Nam tiếp tục xuất siêu ấn tượng. Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may dự kiến đạt 39 tỷ USD
-
Năm 2019, mặc dù sản xuất và xuất khẩu ngành thép tăng, nhưng, ngành thép vẫn phải nhập thêm 7,87 triệu tấn thép, điều này cho thấy