Tăng khả năng cung ứng xơ sợi của Việt Nam
Theo Hiệp hội Bông sợi Việt Nam (VCOSA), Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị phần xuất khẩu xơ, sợi và dệt may trong tương lai.
Về khả năng cung ứng xơ sợi của Việt Nam, theo Tổng cục Thống kê, sản phẩm sợi tơ (filament) tổng hợp đạt sản lượng cao nhất trong 10 tháng năm 2022 với gần 1,09 triệu tấn, giảm 15,86% so với cùng kỳ năm 2021.Sản xuất sợi xe từ các loại sợi tự nhiên đạt hơn 779 nghìn tấn, giảm 4,33%. Sản lương sợi từ bông (staple) tổng hợp có tỷ trọng của loại bông này dưới 85% đạt 138,74 nghìn tấn, giảm 18,56% so với 10 tháng năm 2021.
Bảng 1: Sản lượng xơ sợi của Việt Nam trong tháng 10 và 10 tháng năm 2022
(ĐVT: Tấn)
Tên sản phẩm |
Tháng 10/2022 |
So với |
So với T10/2021 (%) |
10 tháng 2022 |
So với 10T/2021 (%) |
---|---|---|---|---|---|
Sợi tơ (filament) tổng hợp |
98.950 |
0,59 |
2,23 |
1.087.424 |
-15,86 |
Sợi từ bông (staple) tổng hợp có tỷ trọng |
13.261 |
4,43 |
-19,94 |
138.741 |
-18,56 |
Sợi xe từ các loại sợi tự nhiên: bông, đay, |
65.768 |
-2,84 |
-18,00 |
779.049 |
-4,33 |
Về xuất khẩu, theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu xơ sợi của Việt Nam trong 10 tháng năm 2022 đạt hơn 1,32 triệu tấn với trị giá hơn 4 tỷ USD, trong khi kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm 2021 là 5,6 tỷ USD.
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu xơ sợi lớn thứ 6 thế giới. Các sản phẩm của Việt Nam chủ yếu xuất sang Trung Quốc, chiếm tỷ trọng hơn 45% kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là: Hàn Quốc (chiếm hơn 9%); ASEAN (chiếm 8,8%); Hoa Kỳ (chiếm 7%).
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu xơ sợi các loại của Việt Nam tháng 10 và 10 tháng năm 2022
Thị trường |
Tháng 10/2022 |
So với T9/2022 |
So với T10/2021 |
10 tháng 2022 |
So với 10T/2021 |
|||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Lượng (tấn) |
Trị giá |
Lượng (%) |
Trị giá (%) |
Lượng (%) |
Trị giá (%) |
Lượng (tấn) |
Trị giá |
Lượng (%) |
Trị giá (%) |
|
Tổng |
116.673 |
307,97 |
0,64 |
-4,71 |
-21,39 |
-34,42 |
1.321.022 |
4.083,46 |
-18,04 |
-10,56 |
FTA RCEP |
77.088 |
212,16 |
-2,21 |
-5,00 |
-24,71 |
-35,92 |
867.853 |
2.791,71 |
-23,65 |
-15,07 |
FTA CPTTP |
5.953 |
16,10 |
21,05 |
14,68 |
29,10 |
24,15 |
56.633 |
175,98 |
0,48 |
19,27 |
Trung Quốc (Đại lục) |
51.900 |
139,72 |
-4,35 |
-6,39 |
-33,61 |
-43,31 |
600.309 |
1.893,99 |
-31,13 |
-23,26 |
Hàn Quốc |
11.766 |
35,03 |
14,68 |
8,73 |
-18,60 |
-30,75 |
119.896 |
410,32 |
-17,61 |
-6,90 |
ASEAN |
9.872 |
28,18 |
-13,01 |
-15,32 |
30,15 |
1,95 |
117.112 |
392,26 |
29,31 |
29,11 |
Philippines |
3.137 |
7,85 |
-24,52 |
-28,96 |
326,80 |
344,94 |
29.087 |
83,55 |
301,81 |
415,09 |
Indonesia |
2.952 |
8,62 |
-2,25 |
-4,33 |
12,71 |
-29,46 |
32.263 |
113,43 |
22,15 |
9,98 |
Thái Lan |
2.160 |
6,72 |
-18,31 |
-25,32 |
-7,34 |
-3,14 |
31.329 |
106,05 |
24,91 |
39,42 |
Malaysia |
1.078 |
2,86 |
30,83 |
36,63 |
28,95 |
-1,57 |
10.975 |
35,62 |
-24,71 |
-22,14 |
Campuchia |
545 |
2,14 |
-22,59 |
-0,01 |
-48,78 |
-43,98 |
13.458 |
53,61 |
-22,02 |
-14,41 |
Hoa Kỳ |
6.454 |
10,35 |
38,92 |
2,98 |
-35,40 |
-3,92 |
94.062 |
163,95 |
6,15 |
49,47 |
Bangladesh |
4.707 |
18,16 |
11,22 |
5,30 |
-0,91 |
-27,34 |
39.718 |
190,03 |
17,21 |
1,45 |
Đài Loan (Trung Quốc) |
3.162 |
9,74 |
-4,18 |
-9,37 |
-34,87 |
-46,04 |
37.927 |
132,09 |
-19,51 |
-12,49 |
Ấn Độ |
2.566 |
5,59 |
-22,20 |
-46,94 |
27,66 |
15,92 |
35.424 |
103,89 |
71,14 |
84,97 |
Nhật Bản |
3.550 |
9,23 |
19,93 |
7,71 |
62,62 |
44,85 |
30.536 |
95,14 |
5,14 |
27,95 |
Brazil |
1.665 |
3,30 |
-39,48 |
-33,07 |
-30,36 |
-59,44 |
23.664 |
45,95 |
-29,55 |
-45,40 |
Thổ Nhĩ Kỳ |
2.861 |
5,02 |
32,21 |
-6,97 |
137,43 |
3,60 |
23.021 |
66,37 |
35,31 |
-5,39 |
Anh |
1.373 |
1,36 |
-42,07 |
-42,87 |
-34,40 |
-28,39 |
17.168 |
18,50 |
-11,06 |
5,28 |
Colombia |
1.203 |
3,36 |
-20,23 |
-21,63 |
-37,77 |
-54,84 |
16.927 |
55,56 |
0,19 |
0,05 |
Pakistan |
2.070 |
6,73 |
16,29 |
13,05 |
-11,04 |
-33,11 |
15.448 |
64,47 |
-49,22 |
-36,33 |
EU-27 |
1.205 |
4,16 |
29,29 |
-6,64 |
77,99 |
21,61 |
13.411 |
63,60 |
29,86 |
51,98 |
Italy |
687 |
2,14 |
102,06 |
-6,62 |
95,17 |
7,79 |
6.459 |
34,46 |
22,10 |
46,65 |
Romania |
518 |
2,02 |
-12,50 |
-6,66 |
59,38 |
40,79 |
6.952 |
29,14 |
38,02 |
58,80 |
Pê Ru |
1.029 |
3,26 |
4,36 |
12,69 |
-19,86 |
7,24 |
11.577 |
34,28 |
60,50 |
106,29 |
Ai Cập |
542 |
1,27 |
58,94 |
37,44 |
-55,02 |
-71,07 |
11.060 |
35,67 |
-21,04 |
-10,28 |
Sri Lanka |
567 |
2,89 |
-7,50 |
-11,78 |
21,15 |
-8,40 |
5.432 |
35,33 |
-20,56 |
-11,16 |
Chile |
296 |
0,75 |
100,00 |
55,11 |
-3,90 |
15,25 |
3.545 |
10,94 |
-35,92 |
1,11 |
Hồng Kông (Trung Quốc) |
77 |
0,31 |
102,63 |
46,02 |
-87,12 |
-94,24 |
1.397 |
8,22 |
-84,56 |
-82,72 |
Nhiều cơ hội mở rộng thị phần
Theo Hiệp hội Bông sợi Việt Nam(VCOSA), hai thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và EU có xu hướng giảm nhập khẩu nguyên liệu dệt từ Trung Quốc trong khi tăng nhập khẩu từ các nước khác. Vì vậy, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị phần xuất khẩu xơ, sợi và dệt may trong tương lai.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh dịch Covid- 19còn diễn biến khó lường,phân khúc xơ và sợi của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục là yếu tố phục hồi chính và sẽ ít bị ảnh hưởng hơn so với may mặc.
Ngoài ra, một yếu tố khác nữa tạo cơ hội cho các sản phẩm xơ, sợi của Việt Nam có nhiều tiềm năng trong thời gian tới,đó là sợi nhân tạo tổng hợp từ dầu mỏ, than đá và khí đốt tự nhiên chiếm hơn 60% thị phần sợi toàn cầu. Xung đột Nga-Ukraine có tác động trực tiếp và làm tăng giá sản xuất xơ sợi vào năm 2022.
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 diễn ra mạnh mẽ đang tác động và làm thay đổi cũng như mở ra nhiều cơ hội cho ngành công nghiệp sản xuất, trong đó có ngành sợi phát triển.Theo đó, những lợi thế cũ trong ngành sợi như nhân công giá thấp, nguyên vật liệu truyền thống... sẽ không còn, một loạt các sản phẩm mới được nghiên cứu chế tạo thành công, đặc biệt các sản phẩm sợi tái chế.
Mặt khác, triển vọng phát triển bứt phá của ngành xơ, sợi còn đến từ hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới như CPTPP, EVFTA, RCEP,...
Doanh nghiệp tăng cường đầu tư mới, mở rộng sản xuất
Để nắm bắt các cơ hội từ thị trường, gia tăng thị phần xuất khẩu xơ, sợi, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tăng cường đầu tư mới, mở rộng sản xuất để đón đầu sự dịch chuyển nguồn hàng từ Trung Quốc.
Đơn cử, Tổng công ty Cổ phần Dệt may Hà Nội (Hanosimex) trong 2 năm 2023-2025 sẽ tiếp tục đầu tư Nhà máy sợi 3 tại Hà Nam, quy mô 39.000 cọc sợi, sản lượng 10.800 tấn/năm với tổng vốn dự kiến 750 tỷ đồng.
Công ty TNHH Sợi Dệt Hương Sen Comfor tiếp tục đầu tư xây dựng, mở rộng sản xuất giai đoạn 2 lên thêm 43.000 cọc sợi với thiết bị nhập khẩu đồng bộ từ châu Âu. Dự kiến đi vào hoạt động quý 1/2023, nâng tổng công suất lên 13.500 tấn sợi/năm.
Công ty cổ phần Sợi Phú Bài đã hoàn thành đầu tư Nhà máy sợi có quy mô 2 tầng đầu tiên trong hệ thống các đơn vị sản xuất sợi của Vinatex, với tổng mức đầu tư 511 tỷ đồng. Nhà máy đạt công suất thiết kế khoảng 500 tấn/tháng, mặt hàng mục tiêu là sợi 100% cotton chải kỹ và chải thô có chỉ số bình quân Ne 32- 34, hướng tới các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản và một số thị trường châu Âu.Nhà máy mới sẽ giúp tiết kiệm được lực lượng lao động, đồng thời cải thiện năng suất. Quy mô 30.000 cọc sợi, nhưng chỉ cần 130 lao động, giảm được một nửa số lao động so với nhà máy cũ. Nhà máy cũng được lắp hệ thống pin năng lượng mặt trời, hướng tới tiết kiệm nguồn năng lượng, bắt kịp xu hướng xanh hóa ngành dệt may.
Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn cũng đã khởi động dự án Khu phức hợp công nghệ cao Thái Tuấn với tổng vốn đầu tư 16.000 tỷ đồng. Dự án được kỳ vọng biến nơi đây trở thành khu phức hợp công nghệ cao, sản xuất chuỗi công nghiệp sợi- dệt- hoàn tất- may mặc- da giày- phụ kiện thời trang hiện đại hàng đầu Việt Nam.Dự án được xây dựng tại khu công nghiệp Đức Hòa III, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, với tổng diện tích là 85ha. Dự án chia làm 3 giai đoạn: đầu tư vào đất, hạ tầng kỹ thuật; đầu tư các nhà máy dệt, hoàn tất, phụ trang, trung tâm trưng bày sản phẩm, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực; đầu tư nhà máy kéo sợi, kho vận.
Nguồn: Phòng TTCN
-
Những năm gần đây, thương mại điện tử (TMĐT) ngày càng được mở rộng và hiện đã trở thành phương thức kinh doanh phổ biến được doanh nghiệp,
-
Xuất khẩu nông sản đang có sự tăng trưởng liên tục những năm qua. Để vượt qua được những rào cản kỹ thuật và giữ, mở rộng thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp nông sản Việt cần nắm được thông tin và đáp ứng bền vững các tiêu chuẩn chất lượng nông, lâm, thủy sản.
-
Mới đây, Sở Công Thương Hà Nội phối hợp với UBND huyện Ba Vì tổ chức Lễ khai trương Điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP tại thôn Việt Long, xã Tản Lĩnh.
-
Nhu cầu nhập khẩu máy móc ngành dệt may của thế giới ngày càng tăng, trong khi đó khả năng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam vẫn còn thấp, chỉ chiếm khoảng 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu máy móc thiết bị của cả nước