VITIC
TIN TỨC- SỰ KIỆN

Sản xuất công nghiệp quý I/2021 tăng khá

01/04/2021 16:06

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 03/2021 ước tính tăng 22,1% so với tháng trước và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, IIP toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước.
 
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 03/2021 ước tính tăng 22,1% so với tháng trước và tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 17,1% so với tháng trước và giảm 8,6% so với cùng kỳ; ngành chế biến, chế tạo lần lượt tăng 22,5% và 5,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 26,4% và 3,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,8% và tăng 8,7%.
 
Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, IIP toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 8%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,3%; riêng ngành khai khoáng giảm 8,2%
 
Chỉ số sản xuất quý I/2021 một số ngành trọng điểm thuộc các ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 30,9%; sản xuất đồ uống tăng 16,9%; sản xuất thiết bị điện và khai thác quặng kim loại cùng tăng 12,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 12,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,2%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 9,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 7,9%.
 
Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 13,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 3,5%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 2%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 1,8%; khai thác than cứng và than non giảm 0,1%.
 
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực quý I/2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 54%; linh kiện điện thoại tăng 47,9%; ti vi các loại tăng 30,9%; ô tô tăng 17,7%; sắt, thép thô tăng 14,4%; bia các loại tăng 12,1%; phân hỗn hợp NPK tăng 10,8%; khí hóa lỏng LPG tăng 9,1%.
 
Một số sản phẩm giảm hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên giảm 16,1%; dầu mỏ thô khai thác giảm 12,1%; xăng, dầu các loại tăng 0,1%; xe máy và thép thanh, thép góc cùng giảm 1,6%; giày, dép da giảm 1,3%; than sạch giảm 0,1%.
 
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 3/2021 tăng 24,1% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2020 tăng 2,8%), trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 28,5%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 18,7%; sản xuất đồ uống tăng 17,8%; sản xuất thiết bị điện tăng 12,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 11,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 10,8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 13,5%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 13,3%; dệt giảm 1,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 0,2%.
 
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2021 tăng 22,5% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020 tăng 24,9%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất đồ uống tăng 13,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 13%; sản xuất xe có động cơ giảm 24,5%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 91,6%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 85,7%; sản xuất kim loại tăng 68,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 40,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 31,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 29,2%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2021 đạt 75,1% (cùng kỳ năm trước là 78,4%).
 
Tình hình cụ thể ở các ngành như sau:
 
Nhóm ngành khai khoáng
 
Ngành dầu khí:
 
Sản lượng dầu thô khai thác tháng 3 ước đạt 0,9 triệu tấn, giảm 12,7% so với cùng kỳ năm 2020; khai thác khí đốt thiên nhiên ước đạt 0,7 tỷ m3, giảm 14,3%; khí hóa lỏng ước đạt 82,5 nghìn tấn, tăng 21,4% so với cùng kỳ.
 
Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 2,7 triệu tấn, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm 2020; khai thác khí đốt thiên nhiên ước đạt 2 tỷ m3, giảm 16,1%; khí hóa lỏng ước đạt 228,4 nghìn tấn, tăng 9,1% so với cùng kỳ.
 
Ngay từ đầu năm các đơn vị thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã nhanh chóng bám sát diễn biến giá dầu thô trong năm 2021, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh an toàn, ổn định, tận dụng được cơ hội thị trường, hoàn thành tốt kế hoạch quý I/2021, đóng góp tích cực cho kết quả chung của Tập đoàn.
 
Ngành Than:
 
Hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành than những tháng đầu năm 2021 chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan: số ngày làm việc thực tế ít hơn so với các tháng trong năm do trùng vào dịp nghỉ Tết nguyên đán Tân Sửu; đặc biệt là ảnh hưởng của dịch bệnh Covid - 19 bùng phát trở lại và diễn biến phức tạp tại một số địa phương, trong đó có Quảng Ninh - địa bàn trọng yếu của các đơn vị ngành than, dẫn đến lực lượng lao động bị thiếu hụt do ảnh hưởng của dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của các đơn vị trong việc khẩn trương triển khai các biện pháp phòng chống dịch, song song với tích cực thúc đẩy sản xuất ngay từ những ngày đầu, tháng đầu; do vậy mọi mặt hoạt động của ngành than vẫn duy trì ổn định, các chỉ tiêu sản xuất cơ bản đạt kế hoạch. Cụ thể: Sản lượng than sạch tháng 3, ước đạt 4,953 triệu tấn, giảm 0,6% so với cùng kỳ; alumin ước đạt 123 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ.
 
Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, sản lượng than sạch ước đạt 12,8 triệu tấn, giảm 0,1% so với cùng kỳ; alumin ước đạt 312,2 nghìn tấn, giảm 3,5% so với cùng kỳ.
 
Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo
 
Nhóm hàng dệt may, da giày:
 
Ngành dệt may, da giày trong quý I năm 2021 đã có nhiều tín hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước. Dù dịch bệnh vẫn còn, tuy nhiên đến thời điểm hiện nay các doanh nghiệp đã tìm ra được hướng đi phù hợp, thị trường dệt may, da giày thế giới đã dần sôi động trở lại. Việc các nước liên tục đưa vaccine phòng Covid-19 vào tiêm cho người dân cũng đã tăng niềm tin, góp phần thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, trong đó có tiêu dùng dệt may, da giày tăng trở lại. Tuy số lượng và đơn giá sản phẩm chưa trở lại bằng ngưỡng năm 2019, nhưng tín hiệu thị trường đã dần hồi phục.
 
Chỉ số sản xuất ngành dệt tính chung 3 tháng tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2020 (tháng 3 tăng 5,3% so với cùng kỳ); chỉ số sản xuất trang phục tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2020 (tháng 3 tăng 0,1%). Một số sản phẩm trong ngành đạt mức tăng trưởng như: Vải dệt từ sợi tự nhiên ước đạt 143 triệu m2, tăng 3,4% so với cùng kỳ; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo ước đạt 266,3 triệu m2, tăng 2,5% so với cùng kỳ; quần áo mặc thường ước đạt 1.077,5 triệu cái, tăng 1,3%. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc ước đạt 7,2 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại tăng 31%; kim ngạch xuất khẩu vải mành, vải kỹ thuật khác tăng 8,8%.
 
Chỉ số sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2020; sản lượng giầy, dép da 3 tháng đầu năm 2019 ước đạt 64,2 triệu đôi, giảm nhẹ 1,3% so với cùng kỳ; Kim ngạch xuất khẩu giầy, dép các loại ước đạt 4,74 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ.
 
Các ngành sản xuất chế biến thực phẩm và đồ uống:
 
Tháng 03 và 3 tháng năm 2021, sản xuất kinh doanh của ngành cơ bản ổn định. Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất duy trì mức tăng trưởng khá. Ngành sản xuất đồ uống tăng 16,9% so với cùng kỳ; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 4,9% so với cùng kỳ; trong khi đó ngành sản xuất thuốc lá tăng nhẹ 3,6%.

Ngành cơ khí, điện, điện tử:

Tình hình sản xuất kinh doanh các sản phẩm điện tử quý I năm 2021 nhìn chung tăng trưởng khá tốt. Sản lượng sản xuất 3 tháng đầu năm 2021: Điện thoại di động đạt 54,4 triệu cái (tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước), ti vi đạt 4.458 nghìn cái (tăng 30,9% so với cùng kỳ năm trước).
 
Đối với ngành ô tô, xe máy, sản lượng sản xuất 3 tháng đầu năm 2021: Ô tô đạt 71,6 nghìn chiếc (tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước), xe máy đạt 758,6 nghìn chiếc (giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước).
 
Ngành thép:
 
Tháng 3 năm 2021, sản lượng sắt thép thô ước đạt 2.142,5 nghìn tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ; thép cán ước đạt 707 nghìn tấn, tăng 47,9% so với cùng kỳ; thép thanh, thép góc ước đạt 723,3 nghìn tấn, giảm 4,6% so với cùng kỳ. Tính chung 3 tháng đầu năm 2021, sản lượng sản xuất sắt thép thô; thép cán tăng lần lượt là 14,4%; 54% so với cùng kỳ năm trước; riêng thép thanh, thép góc giảm 1,6%.
 
Ngành thép năm 2021 dự kiến có sự tăng trưởng tốt nhờ hưởng lợi từ việc đẩy mạnh đầu tư công cũng như thị trường bất động sản nhà ở có thể nóng trở lại. Ðiều này sẽ có tác động tích cực giúp ngành thép đạt mức tăng trưởng cao trong năm nay.
 
Nhóm ngành sản xuất và phân phối điện
 
Quý I/2021 có thời gian trùng với tết Dương lịch và Tết Nguyên đán nên nhu cầu sử dụng điện tăng nhẹ so với cùng kỳ. Cơ bản, ngành điện đã đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định phục vụ nhân dân cả nước, không để xảy ra tai nạn lao động về điện, không có hiện tượng cháy nổ điện, qua đó ổn định sản xuất, cung ứng và phân phối điện và điều hành giá điện.
                                                            
Sản lượng điện sản xuất tháng 3 ước đạt 20.705,1 triệu kWh, tăng 36,7% so với tháng 2, tăng 4,5% so với cùng kỳ. Tính chung cả quí I năm 2021, sản lượng điện sản xuất ước đạt 55.019,4 triệu kWh, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2020.
 
Điện thương phẩm tháng 3 ước đạt 17.180 triệu kWh, tăng 8,6% so với tháng 2, tăng 1,1% so với cùng kỳ. Tính chung cả quí I, điện thương phẩm ước đạt 50.788,1 triệu kWh, tăng 3,2% so với cùng kỳ.
 
Công tác điều hành, vận hành hệ thống điện an toàn, linh hoạt, kịp thời, bám sát tình hình thời tiết, thủy văn, khai thác tối ưu thủy điện - nhiệt điện, đồng thời đáp ứng cấp nước cho khu vực hạ du; phục vụ gieo cấy lúa vụ Đông Xuân ở các địa phương khu vực Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ.
 
Ngày 26 tháng 3 năm 2021, Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Trung đã phối hợp với các đơn vị liên quan đóng điện thành công giai đoạn 1 công trình đường dây 500kV đấu nối Nhà máy Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 vào hệ thống điện quốc gia. Đây là các dự án lưới điện cấp bách, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016 về Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030 (Quy hoạch điện VII), với mục tiêu truyền tải điện từ Nhà máy này vào hệ thống điện quốc gia; tăng cường sự ổn định và an toàn vận hành của hệ thống điện miền Bắc nói riêng và hệ thống điện toàn quốc nói chung. Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Trung đang nỗ lực triển khai thực hiện để phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án trong tháng 5/2021.

Nguồn : Bộ Công Thương

Tin cũ hơn
Trụ sở chính
Địa chỉ: Tầng 5-6, Tòa nhà Bộ Công Thương, Số 655 Phạm Văn Đồng, Phường Nghĩa Đô - TP. Hà Nội
Điện thoại: 024 3826 2316 - 024 3939 3360 
Email: ttthongtin@moit.gov.vn
Chi nhánh TP Hồ Chí Minh
Địa chỉ: Tầng 11, Trụ sở Bộ Công Thương - Số 12 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028 3823 7216
Email: t_nguyenhuutam@yahoo.com
Chi nhánh TP Đà Nẵng
Địa chỉ: Tầng 4, Trụ sở Bộ Công Thương - Số 7B, đường CMT8, Phường Hoà Cường - TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 023 638 356
Email: anhtuan7702@yahoo.com
Giấy phép số 153/GP-TTĐT ngày 5 tháng 7 năm 2024 của Bộ Thông tin Truyền thông.
Số người truy cập: 5.238.005