Đề tài: Nghiên cứu và đề xuất giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm Công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu
Với thị trường 660 triệu dân, GDP của ASEAN năm 2016 đạt 2.551 tỷ USD và được dự báo sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới vào năm 2030. Trong thời gian qua, XK của Việt Nam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nâng cao cả về chất lượng và giá trị. Ngoài những mặt hàng nông sản và nguyên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, Việt Nam đã xuất khẩu (XK) sang các nước ASEAN nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, máy móc thiết bị phụ tùng, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa, hàng gốm sứ thủy tinh với giá trị cao và ổn định hơn.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được chính thức thành lập vào ngày 31/12/2015 tạo điều kiện lớn cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam XK các mặt hàng có thế mạnh, mở rộng thị trường tại các quốc gia trong khu vực. Cùng với đó, hàng hóa của Việt Nam XK sang các nước ASEAN còn có cơ hội mở rộng thị trường khác vì các quốc gia trong AEC còn có các hiệp định thương mại tự do với các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.
Thời gian qua, các DN Việt Nam thường XK hàng hóa sang các thị trường nói chung và sang thị trường ASEAN nói riêng qua nhiều trung gian nước ngoài, dẫn đến khó nắm bắt được tận gốc nhu cầu của người tiêu dùng nước sở tại. Cũng do XK gián tiếp và phân phối hàng hóa qua nhiều cấp nên DN bị phụ thuộc nhiều vào đối tác trung gian, lợi nhuận XK trên doanh thu thấp. Chất lượng, mẫu mã hàng hóa, danh mục sản phẩm… khó theo kịp xu hướng tiêu dùng và các quy định của thị trường. Hơn nữa, do không có “tiếng nói”, “vị thế” trong mạng lưới phân phối nên DN không chủ động được chiến lược kinh doanh, tiếp thị, phát triển thị trường và khó phát triển được thương hiệu của mình tại các thị trường nước ngoài.
Để đẩy mạnh đưa hàng hóa vào hệ thống phân phối nước ngoài, ngày 03 tháng 09 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã kí quyết định số 1513/QĐ-TTg phê duyệt Phê duyệt Đề án thúc đẩy DN Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020. Đề án này đặt ra các mục tiêu cụ thể:
- Tăng kim ngạch hàng hoá XK trực tiếp vào các hệ thống phân phối nước ngoài, trước mắt là các hệ thống phân phối đã có hiện diện tại Việt Nam và tiếp đến là các hệ thống phân phối lớn khác.
- Tăng kim ngạch XK (KNXK) trực tiếp vào các hệ thống phân phối nước ngoài theo từng năm của những nhóm hàng XK mà Việt Nam có thế mạnh (như dệt may, da giầy, thuỷ sản, cà phê, chè, rau quả, đồ gỗ...).
- Phấn đấu đến năm 2020, hàng hoá XK của Việt Nam được XK trực tiếp vào tất cả các hệ thống phân phối lớn tại khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Nam Á và Đông Bắc Á, tại các quốc gia ký Hiệp định thương mại tự do với Việt Nam.
Đối với thị trường ASEAN, mặc dù đạt được những kết quả nhất định nhưng trong quan hệ thương mại với ASEAN trong những năm vừa qua, Việt Nam luôn ở thế nhập siêu khá lớn, nhất là với thị trường Thái Lan, Malaysia và Singapore. Thị phần của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam tại các thị trường ASEAN còn rất khiêm tốn, đồng thời, tỷ trọng của các thị trường ASEAN trong tổng KNXK các sản phẩm công nghiệp của nước ta còn thấp.
Một trong những nguyên nhân chính là các DN XK Việt Nam chưa chủ động được trong việc xây dựng hoặc tham gia hiệu quả vào mạng lưới phân phối hàng hóa tại các thị trường thành viên của ASEAN.
Từ các cơ sở trên, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại thực hiện đề tài: “Nghiên cứu và đề xuất giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN“.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Gồm các nghiên cứu chung về phân phối hàng hóa, về đặc điểm thị trường và phân phối hàng hóa tại thị trường ASEAN. Các nghiên cứu đều cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng thành công mạng lưới phân phối tại thị trường nước ngoài khi XK, đồng thời phân tích triển vọng, đặc điểm của thị trường ASEAN nói chung và một số ngành hàng nói riêng, đưa ra các khuyến nghị đối với Chính phủ và DN trong việc xây dựng mạng lưới phân phối hàng hóa nói chung và tại ASEAN nói riêng.
- Nghiên cứu của Masakuni Negishi và Takashi Shimasaki (2014) về khả năng xây dựng hạ tầng phân phối kiểu Nhật tại thị trường ASEAN đã nghiên cứu kỹ thực trạng mạng lưới phân phối hàng hóa tại các thị trường ASEAN để xác định tính khả thi và tìm phương án “XK” các hạ tầng phân phối kiểu Nhật sang ASEAN. Nghiên cứu cho thấy trong những năm gần đây, thị trường phân phối của ASEAN phát triển rất nhanh chóng và nhu cầu xây dựng các mạng lưới phân phối hiện đại. Nghiên cứu này cũng chỉ ra 3 phương pháp để xây dựng mạng lưới phân phối tại thị trường mới gồm có: (1) thúc đẩy XK. (2) Hỗ trợ các DN phát triển kinh doanh ở các thị trường trọng điểm và (3) hỗ trợ việc mở rộng mạng lưới phân phối, kinh doanh hiện có của các DN tại các thị trường trọng điểm. Đối với việc mở kênh phân phối tại thị trường ASEAN, sau khi nghiên cứu các đặc trưng của thị trường này, các tác giả cũng chỉ ra các điều kiện để thành công gồm có: Đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và độ mở khi phân chia trách nhiệm và lợi nhuận giữa các bên liên quan (các thị trường ASEAN rất đa văn hóa, đa chủng tộc nên không phải các bên sẽ dễ dàng hiểu nhau); Thiết lập một tổ chức gồm những người có kinh nghiệm phát triển mạng lưới phân phối ra bên ngoài và đặc biệt là có kinh nghiệm về phân phối tại thị trương ASEAN; Chính phủ cần có hỗ trợ thông qua những khoản đầu tư trung và dài hạn thay vì các khoản trợ cấp trong ngắn hạn.
- Báo cáo của Edwin Basson- giám đốc điều hành Hiệp hội thép thế giới về việc tạo và phân bổ giá trị trong ngành thép thị trường ASEAN, thực hiện năm 2015 cho thấy thị trường ASEAN có dân số lớn với nhiều yêu cầu đa dạng. Việc xây dựng các chuỗi giá trị và mạng lưỡi phân phối tại các thị trường này có thể mang lại lợi nhuận bền vững cho các nhà sản xuất và XK thép, nhưng đòi hỏi họ tập trung thích hợp vào: Đào tạo và phát triển; Xây dựng mối quan hệ hợp tác sản xuất; Bảo đảm các mối quan hệ cung cấp ổn định.
- Nghiên cứu của Roehlano M. Briones and Danilo C. Israel (2014) về “Tăng cường kết nối chuỗi cung ứng và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp ASEAN: Xác định các điểm nút và cơ hội cải tiến” cho thấy Chính phủ có thể muốn bắt đầu hợp nhất dài hạn chế biến và tiếp thị trong ngành. Điều này có thể dẫn đến một mạng lưới các trung tâm thương mại và chế biến, thúc đẩy hợp tác công tư trong phát triển XK và phân phối sản phẩm, kết hợp với một khung pháp lý mạnh mẽ, áp dụng các tiêu chuẩn và cấp sản phẩm. Đồng thời khu vực công nên đầu tư nhiều vào cải thiện mạng lưới giao thông.
- Atsushi Kobayashi (2013) đã nghiên cứu về ầm quan trọng của hệ thống phân phối các sản phẩm khu vực đối với việc tăng cường thương mại tại Singapore và kết luận việc thiết lập thành công các hệ thống phân phối từ sớm đã giúp Singapore có vai trò quan trọng mắt xích trong thương mại của khu vực.
- Tài liệu tập huấn về "Lập kế hoạch và Phân tích Hậu cần" được xây dựng trong Dự án Quản lý Nguồn lực bền vững của Dự án cho các Quốc gia thành viên ASEAN với sự hỗ trợ của Quỹ Hợp nhất Nhật Bản-ASEAN (JAIF). Hiệp hội Bản quyền về các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2014, đã đưa ra các định nghĩa và mô tả về các hệ thống phân phối và mối liên hệ với logistics một cách hiệu quả. Điểm hay của tài liệu này là việc sơ đồ hóa hệ thống này và phân tích chi tiết về các chi phí phân phối đối với hàng hóa giao dịch xuyên biên giới. …
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Gồm các nghiên cứu về tác động của sự hình thành thị trường chung AEC, nghiên cứu điển hình về chuỗi giá trị, các vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và vấn đề phân phối hàng hóa XK.
- Nghiên cứu “Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam” của Hà Văn Hội (2013) phân tích những kết quả đạt được trong lộ trình hướng tới thành lập AEC, thể hiện ở việc thực thi các nội dung trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC, trên các lĩnh vực: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ...; những tác động tích cực và tiêu cực của việc tham gia AEC đối với thương mại Việt Nam. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để thương mại Việt Nam hội nhập AEC một cách hiệu quả. Nghiên cứu cho thấy hội nhập kinh tế ASEAN là vấn đề không chỉ được Việt Nam mà hầu hết các nước trong khu vực hết sức quan tâm. tham gia AEC sẽ giúp Việt Nam tăng thêm khối lượng trao đổi thương mại với các nước trong khu vực. Một trong những trụ cột trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC là hình thành thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất. Mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất đang được ASEAN thúc đẩy mạnh, bao gồm năm yếu tố cơ bản: (i) tự do lưu chuyển hàng hóa; (ii) tự do lưu chuyển dịch vụ; (iii) tự do lưu chuyển đầu tư; (iv) tự do lưu chuyển vốn; và (v) tự do lưu chuyển lao động có kỹ năng. Năm yếu tố nêu trên sẽ là những động lực chính thúc đẩy sự tăng trưởng KNXK của Việt Nam với các nước ASEAN cũng như với các đối tác của ASEAN. tham gia AEC sẽ tác động tới việc thay đổi cơ cấu sản phẩm XK theo chiều hướng tích cực. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các nước XK lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hàng dệt may...
- Ấn phẩm “Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015. Kết quả hội nhập và cơ hội cho DN, người dân Việt Nam” do nhóm nghiên cứu của Bộ Công Thương và Dự án MUTRAP thực hiện, xuất bản bởi Nhà xuất bản Thế giới năm 2016 cho thấy là một thị trường với 622 triệu người tiêu dùng và tổng GDP 2,6 ngàn tỷ đô la Mỹ, là nền kinh tế khu vực đứng thứ 7 trên thế giới, thứ 3 châu Á, có tiềm năng vô cùng to lớn cho các DN Việt Nam XK và mở rộng mạng lưới phân phối tại các thị trường này. DN XK từ Việt Nam được hưởng lợi từ việc XK hàng hóa sang thị trường các nước thành viên ASEAN vì các hàng hóa này sẽ không phải chịu thuế nhập khẩu (NK) hay được hưởng mức thuế NK thấp. Quy tắc xuất xứ đối với hàng hóa sản xuất tại Việt Nam để được hưởng ưu đãi cũng rất linh hoạt, cho phép việc cộng gộp giá trị của các đầu vào sản xuất mà DN tại Việt Nam nhập từ ASEAN để tính vào xuất xứ của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam XK sang ASEANvà nhiều thị trường lớn ngoài ASEAN. Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đã xóa bỏ thuế NK đối với gần như toàn bộ các mặt hàng trong biểu NK của các nước này từ năm 2010 (99,2% các dòng thuế trong biểu thuế NK của mỗi nước, trừ một số mặt hàng nông sản hay mặt hàng thuộc danh mục loại trừ). Cơ chế Một cửa ASEAN là hệ thống kết nối 10 cơ chế một cửa quốc gia ASEAN (NSW). Mỗi NSW cho phép việc nộp thông tin một lần và đồng bộ hóa mọi thông tin, phục vụ cho quá trình ra quyết định về thông quan. Nhờ đó, việc thông quan được tiến hành nhanh chóng, giảm thời gian và chi phí cho DN khi tiến hành các giao dịch qua biên giới. 5 nước ASEAN đã kết nối với nhau gồm có Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan, tập trung vào trao đổi thông tin về C/O mẫu D và tờ khai hải quan (ACDD). Đây là cơ hội để hàng hóa Việt Nam dễ dàng thâm nhập và được phân phối vào thị trường ASEAN hơn.
- Nghiên cứu của PGS.TS. Hà Văn Hội (2012) về “Chuỗi giá trị XK dệt may của Việt Nam: Những bất lợi, khó khăn và biện pháp đối phó” cho thấy do đặc thù sản phẩm dệt may XK của Việt Nam là phụ thuộc vào người tiêu dùng nước ngoài, nên trong mỗi “mắt xích” của chuỗi giá trị XK dệt may, từ khâu NK nguyên liệu thô cho đến các khâu tiếp theo như sản xuất nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may, sản xuất sản phẩm XK, phân phối sản phẩm trên thị trường quốc tế đều gặp phải nhiều khó khăn khách quan cũng như chủ quan. Chính vì vậy, để góp phần gia tăng giá trị trong chuỗi giá trị XK, ngành dệt may Việt Nam cần tăng cường các biện pháp như chủ động nguồn nguyên liệu và nhân lực cho sản xuất; tăng cường thu thập, phân tích và trao đổi thông tin, nắm bắt tình hình thị trường XK; tăng cường tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may khu vực và toàn cầu; nắm vững các quy định của các nước đối với việc NK sản phẩm dệt may. Nghiên cứu cũng đưa ra đề xuất Hiệp hội Dệt may Việt Nam cần khuyến khích các DN tích cực tham gia chuỗi cung ứng ASEAN. Để có thể chuyển dần lên các mô hình sản xuất ở cấp độ cao hơn, thoát khỏi tình trạng gia công và tăng giá trị gia tăng, cơ hội mở ra cho Việt Nam khi một mối liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất dệt và may trong ASEAN để xây dựng chuỗi cung ứng trong khu vực được xây dựng. SAFSA - chuỗi cung ứng dệt may chất lượng cao ASEAN là một trong những mô hình đó. SAFSA được kỳ vọng sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN dệt may. Hai bên gồm nhà cung cấp và khách hàng đều có lợi: nhà cung cấp sẽ có lợi nhuận cao hơn khi chuyển dần từ gia công sản phẩm đơn thuần sang sản xuất dịch vụ trọn gói, còn khách hàng có nhiều sự lựa chọn về các nhà cung ứng dịch vụ hơn với thời gian được cung ứng sản phẩm ngắn hơn.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào về các giải pháp về mạng lưới phân phối các sản phẩm công nghiệp tiêu biểu của Việt Nam tại các thị trường cụ thể của ASEAN.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: Đề xuất giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN
Mục tiêu cụ thể:
- Xác định được cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của việc xây dựng mạng lưới phân phối đối với việc thúc đẩy tiêu thụ, XK sản phẩm công nghiệp.
- Đánh giá được thực trạng và triển vọng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN.
- Đề xuất giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Mạng lưới phân phối hàng hóa các mặt hàng công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN”. Trong đó, các sản phẩm công nghiệp có thế mạnh tập trung vào 3 nhóm chính sau đây:
+ Nhóm 1: Các sản phẩm tiêu dùng thường được phân phối đại trà trên diện rộng như dệt may, giầy dép, gốm sứ thủy tinh, sản phẩm nhựa (sau đây gọi tắt là Nhóm 1). Đây là nhóm sản phẩm cần tập trung xây dựng và phát triển mạng lưới phân phối tại thị trường ASEAN.
+ Nhóm 2: Nhóm các sản phẩm công nghiệp nặng do các DN Việt Nam sản xuất và XK, có kim ngạch lớn nhưng đi theo các kênh phân phối chuyên ngành, không đại trà như: sắt, tôn, thép, máy móc thiết bị phụ tùng (sau đây gọi tắt là nhóm 2)
+ Nhóm 3: Nhóm hàng điện tử gồm điện thoại, linh kiện, máy tính, điện tử. Nhóm này có KNXK sang ASEAN lớn nhất trong số các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam nhưng chủ yếu các DN FDI thực hiện và đi theo mạng lưới phân phối của họ. Ví dụ các công ty FDI lớn như Samsung, LG, Synopex (Hàn Quốc), Canon, Panasonic, Meiko (Nhật Bản), Sonion (Đan Mạch) hiện chiếm phần lớn trị giá XK nhóm hàng này sang ASEAN. Là các công ty đa quốc gia, thương hiệu nổi tiếng toàn cầu, các công ty này đã thiết lập được các kênh phân phối vững chắc trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu của họ. Các DN Việt Nam chỉ tham gia một phần nhỏ vào chuỗi cung ứng, các sản phẩm hiện chủ yếu được tiêu thụ trong nước hoặc được gia công XK theo hợp đồng gia công của đối tác nước ngoài, hoặc tham gia cung ứng đầu vào cho các DN FDI.
Do đó, trong khuôn khổ đề tài này sẽ tập trung vào các mặt hàng thuộc Nhóm 1 và nhóm 2 để phân tích và đề xuất giải pháp về mạng lưới phân phối cho các mặt hàng này tại thị trường ASEAN. Cụ thể cơ sở lựa chọn và phân nhóm này sẽ được luận giải trong Chương I về cơ sở lý luận và thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian:
+ Trong nước: Phạm vi toàn quốc. Đối với một số ngành hàng cụ thể thì tập trung vào các địa phương có hoạt động sản xuất, XK sôi động ngành hàng đó.
+ Ngoài nước: Các nước trong ASEAN
- Về thời gian
Giai đoạn từ năm 2014-2018
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Cách tiếp cận có sự liên thông, cân đối giữa các phân tích về ngành hàng và thị trường, một mặt bám sát các định hướng đã được Chính phủ phê duyệt như: Các định hướng về XK đã được phê duyệt trong các chiến Chiến lược xuất NK hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030; Định hướng đối với XK sang khu vực ASEAN trong Đề án phát triển các thị trường khu vực thời kỳ 2015 - 2020, định hướng đến năm 2030; Định hướng phát triển từng ngành hàng trong Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp giai đoạn 2018 - 2020, xét đến năm 2025; Định hướng phát triển các kênh phân phối hàng hóa ra thị trường nước ngoài trong Đề án “Thúc đẩy DN Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến 2020”. Đồng thời có sự phân tích chuyên sâu theo cách tiếp ngành hàng- thị trường để xác định các giải pháp cụ thể cho từng ngành hàng ở từng thị trường trong khu vực ASEAN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: thu thập thông tin, số liệu về tình hình mạng lưới phân phối của một số sản phẩm công nghiệp Việt Nam tại thị trường ASEAN.
- Phương pháp tổng hợp – phân tích số liệu: Sử dụng trong việc xử lý số liệu, phân tích số liệu về thực trạng sản xuất, khả năng cung ứng, mạng lưới phân phối….
6. Tính mới của đề tài
Tính mới của Đề tài là có sự phối hợp và tận dụng tốt những thông tin thực địa từ các cơ quan thương vụ, văn phòng thương mại của Việt Nam tại các nước ASEAN, các báo cáo nghiên cứu thị trường uy tín về hệ thống phân phối tại các nước ASEAN, hệ thống số liệu hải quan của các nước để phân tích thị phần của hàng Việt Nam tại ASEAN nói chung và từng thị trường thành viên, từ đó có cái nhìn sát thực nhất về hệ thống phân phối hàng hóa nói chung và hàng công nghiệp nói riêng ở thị trường ASEAN.
7. Nội dung nghiên cứu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng mạng lưới phân phối cho các sản phẩm công nghiệp XK sản phẩm.
Chương 2. Thực trạng mạng lưới phân phối một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN.
Chương 3. Đề xuất giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN.
KẾT LUẬN
Tham gia sâu, rộng hơn vào mạng lưới phân phối hàng hóa tại ASEAN là xu thế tất yếu trong bối cảnh thị trường này được đánh giá là một trong những khu vực phát triển sôi động nhất trên thế giới trong thời gian tới. Các nền kinh tế có độ mở cao, có nhiều thuận lợi cho XK hàng công nghiệp Việt Nam như địa lý, các hoạt động hợp tác sản xuất, đầu tư, thương mại trong khu vực, xu hướng dịch chuyển các chuỗi cung ứng về ASEAN.
Trong trung hạn, để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, hầu hết các nước ASEAN đều có nhu cầu NK khá lớn để phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế. Đây là cơ hội tốt để các nhà XK Việt Nam thúc đẩy XK sang thị trường này.
Tuy nhiên, hàng hoá Việt Nam XK sang thị trường các nước ASEAN còn chưa tương xứng với tiềm năng, thị phần của ngay cả các mặt hàng công nghiệp có thế mạnh của nước ta tại các thị trường này nhìn chung còn thấp; thể hiện sự hiện diện thấp của các sản phẩm Việt Nam trong mạng lưới phân phối hàng hóa tại các nước ASEAN.
Các nguyên nhân khách quan gồm có cơ cấu mặt hàng XK của ta và ASEAN có nhiều điểm tương đồng, áp lực cạnh tranh gay gắt từ hàng hóa tại nước bản địa và từ các nước khác khi hầu hết các nước ASEAN đều trong xu hướng mở cửa nền kinh tế. Trong nhiều nguyên nhân chủ quan đã được phân tích trong đề tài, có thể nhấn mạnh hai nguyên nhân chính là hạn chế trong năng lực sản xuất của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam và trong phân phối các hàng hóa này tại các thị trường ASEAN.
Để tăng thị phần tại thị trường ASEAN, cần xác định rõ được đặc thù xây dựng mạng lưới phân phối cho từng ngành hàng, ở từng thị trường, thông qua việc tổ chức nghiên cứu thị trường một cách bài bản, liên tục và hiệu quả. Trên cơ sở đó, xây dựng hoặc thâm nhập các mạng lưới phân phối phù hợp tại các thị trường ASEAN.
Với ba từ khóa quan trọng là “Mạng lưới phân phối”, “sản phẩm công nghiệp” và “các thị trường trong ASEAN, cả ba chương của Đề tài đều bám sát theo ba nội dung trên, và tập trung giải quyết được các vấn đề sau:
- Ở chương I, Đề tài đã phân tích phân tích, chọn lọc được các lý luận và thực tiễn gần nhất với điều kiện của DN XK sản phẩm công nghiệp của Việt Nam về các nội dung chính của xây dựng mạng lưới phân phối hàng hóa tại thị trường XK; theo đó đầu tiên cần xác định rõ được nhu cầu, mục tiêu và phương pháp phân phối hàng hóa: XK và phân phối trực tiếp hay gián tiếp qua nhiều kênh trung gian? Hay kết hợp cả hai hình thức? XK tại chỗ hay XK qua thương mại điện tử…
(ii) Về các sản phẩm công nghiệp có thế mạnh, Đề tài đã dựa trên các phân tích về cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định và phân nhóm các sản phẩm công nghiệp là trọng tậm xây dựng mạng lưới phân phối hàng hóa tại thị trường ASEAN trong thời gian tới.
(iii) Về thị trường ASEAN, bên cạnh cơ sở thực tiễn về thị trường ASEAN nói chung, Đề tài đã phân tích sâu thực tiễn đặc điểm tiêu thụ và phân phối hàng hóa tại từng thị trường thành viên của ASEAN, coi đó là cơ sở để phân tích thực trạng và đề xuất lựa chọn các mặt hàng phù hợp với từng thị trường, phân khúc thị trường và đề xuất các giải pháp xây dựng mạng lưới phân phối các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam tại từng thị trường đó.
- Ở chương II, Đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN. Sau bức tranh toàn cảnh về tình hình XK và phân phối các sản phẩm công nghiệp sang thị trường ASEAN, xác định được những thành công và nguyên nhân, những hạn chế và nguyên nhân, Đề tài đã đi sâu phân tích tình hình phân phối đối với từng mặt hàng cụ thể trong hai nhóm đã được lựa chọn. Đặc biệt, Đề tài đã tính toán được thị phần các sản phẩm công nghiệp Việt Nam tại các thị trường, phân tích tình hình cạnh tranh, xác định được các vấn đề chính trong phân phối hàng hóa của Việt Nam tại các thị trường này, xác định được danh mục sản phẩm đang được phân phối ở từng thị trường, danh sách các đầu mối NK và phân phối các mặt hàng đó tại từng thị trường (tên, địa chỉ liên hệ của các đầu mối chính, đặc điểm mạng lưới phân phối của một số đầu mối) và một số nghiên cứu điển hình về mạng lưới phân phối hàng hóa của DN Việt Nam tại thị trường ASEAN như tập đoàn Hòa Phát, công ty gốm sứ Minh Long, công ty may Việt Tiến, công ty Bitis…Đây là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp về xây dựng mạng lưới phân phối cho các sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam.
- Ở chương III, trên cơ sở lý luận, thực tiễn và các phân tích thực trạng ở chương II, chương III đánh giá triển vọng tiêu thụ và xây dựng mạng lưới phân phối ở thị trường ASEAN cho các sản phẩm là đối tượng nghiên cứu của Đề tài; các định hướng, chính sách đã được phê duyệt liên quan; từ đó đề xuất định hướng chung và các giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng mạng lưới phân phối cho một số sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN.
Trong thời gian tới, các mặt hàng công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam như đã lựa chọn phân tích ở chương II sẽ vẫn là những mặt hàng có ưu thế do đã được hình thành trên cơ sở lợi thế so sánh. Tuy nhiên, thay vì xây dựng mạng lưới phân phối chung cho toàn ngành hàng rộng lớn, cần lựa chọn đúng sản phẩm thế mạnh đối với từng thị trường, trên cơ sở các phân tích về ngành hàng và thị trường ở chương II, từ đó tập trung cải thiện cả năng lực sản xuất và phân phối, tạo ưu thế cạnh tranh vượt trội tại thị trường ASEAN. Trong đó, nên ưu tiên đầu tư XK, lựa chọn các ngách thị trường phù hợp và xây dựng mạng lưới phân phối bền vững cho các mặt hàng, chủng loại hàng công nghiệp chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao và nguyên liệu đầu vào là sản phẩm trong nước.
Các giải pháp được đề xuất bám sát theo các lý luận xây dựng mạng lưới phân phối đối với các sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là xây dựng mạng lưới phân phối hàng hóa tại thị trường XK, cụ thể ở đây là các thị trường ASEAN.
Các giải pháp từ phía Nhà nước tập trung vào các nhóm chính sau đây: (i) Thực hiện các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với hoạt động xây dựng mạng lưới phân phối tại thị trường ASEAN; (ii) Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về thị trường, ngành hàng, giao thương và phân phối hàng hóa của Việt Nam tại thị trường ASEAN; (iii) Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và kết nối với các hệ thống phân phối tại ASEAN; (iv) Thúc đẩy DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối tham gia đầu tư sản xuất để XK hàng hóa vào hệ thống phân phối tại các thị trường ASEAN; (v) Đàm phán, đầu tư, hoặc hỗ trợ DN đàm phán, đầu tư với đối tác tại ASEAN để thành lập kho ngoại quan phục vụ cung ứng hàng hóa kịp thời cho các hệ thống phân phối tại các thị trường ASEAN; (vi) Nâng cao năng lực các DN sản xuất, XK Việt Nam đáp ứng yêu cầu của các hệ thống phân phối tại các thị trường ASEAN. (vii) Tổ chức xây dựng và triển khai các chương trình cụ thể, chuyên sâu về xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm công nghiệp Việt Nam tại thị trường ASEAN trên cơ sở liên thông và tận dụng nguồn lực từ các chương trình xúc tiến thương mại, chương trình về phát triển công nghiệp hỗ trợ để tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Trong đó, về phía Bộ Công Thương, tập trung vào các giải pháp nhóm (ii), (iii) và (vi) và (vii).
Về phía các DN, một mặt tích cực tham gia thực hiện Đề án "Thúc đẩy DN Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020"; kết nối cung- cầu với hệ thống siêu thị có vốn đầu tư nước ngoài hiện diện tại Việt Nam; tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, nhất là hoạt động giới thiệu sản phẩm và kết nối giao thương giữa Việt Nam và các bạn hàng ASEAN; mặt khác chủ động hơn trong tổ chức các cuộc đàm phán chính thức với các Hiệp hội tương ứng của các nước bạn trong ASEAN để xây dựng chính sách phân phối ổn định lâu dài, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Đề tài cũng đưa ra các giải pháp về phía các cơ quan thông tin, truyền thông. Theo đó cần bám sát định hướng, chủ động, tích cực trong công tác truyền thông về các thị trường ASEAN để cung cấp thông tin cho các DN Việt Nam trong quá trình thâm nhập và xây dựng, phát triển phân phối hàng công nghiệp tại các thị trường này; Đa dạng hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo, lựa chọn các kênh, phương thức truyền thông phù hợp với từng thị trường, phân khúc thị trường để tăng hiệu quả công tác thông tin, truyền thông, quảng bá cho các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam tới cộng đồng DN, người tiêu dùng tại các thị trường ASEAN.
Đối với giải pháp cho từng thị trường, nhóm hàng, mặt hàng, ngoài các giải pháp chung, Đề tài cũng đi sâu vào giải pháp đặc thù cho từng nhóm sản phẩm và phân khúc thị trường tương ứng, dựa trên các phân tích về đặc điểm phân phối, tiêu thụ của từng thị trường, mặt hàng cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm, DN Việt Nam trên từng thị trường đó.
Tóm lại, để xây dựng được mạng lưới phân phối hiệu quả cho các sản phẩm công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường ASEAN, rất cần sự phối hợp, liên kết chặt chẽ của các DN và vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Trong quá trình thâm nhập hoặc thiết lập mạng lưới phân phối tại các thị trường ASEAN cần nắm được những định hướng lớn về phát triển thị trường cũng như kế hoạch triển khai của các đối tác, đối thủ, thận trọng và chắc chắn để tìm được những “ngách” của thị trường phù hợp về chiến lược kinh doanh, về năng lực phân phối, về đối tác địa phương... để từ đó tránh được những rủi ro, tổn thất do việc xây dựng mạng lưới phân phối thiếu bài bản, mang tính tự phát, cạnh tranh lẫn nhau và làm giảm uy tín, thương hiệu của hàng hóa Việt Nam tại thị trường ASEAN hay nghiêm trọng hơn là nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá hay các biện pháp chống gian lận xuất xứ...
Trong khuôn khổ của Đề tài, do một số hạn chế về thời gian, nguồn lực và việc tiếp cận số liệu của các nước đối tác khó khăn nên chưa thể phân tích sâu tình hình cạnh tranh, phân phối chi tiết của từng các chủng loại hàng hóa tại các thị trường ASEAN. Đây là hạn chế của Đề tài, đồng thời cũng là hướng nghiên cứu tiếp theo.
Nhóm thực hiện Đề tài xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân là chuyên gia, các cán bộ tại các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, các DN đã tạo điều kiện trong công tác thu thập và phân tích thông tin.
Chi tiết đề tài Quý độc giả xem tại đây;
Chủ nhiệm đề tài
Đinh Thị Bảo Linh