Năm 2019 kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng trưởng GDP 7,02%
THÔNG TIN KINH TẾ VĨ MÔ VÀ THƯƠNG MẠI
KINH TẾ TRONG NƯỚC
Trái với diễn biến kém khả quan của nhiều nền kinh tế trên thế giới, trong năm 2019 kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng trưởng GDP 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ 6,6%-6,8%, đánh dấu năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt trên 7%, kể từ năm 2011. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,9%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%.
Trong năm qua, mặc dù ảnh hưởng tiêu cực bởi xu hướng giảm tốc của kinh tế và thương mại toàn cầu, nhưng nhìn chung ngành công nghiệp vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá tốt với mức tăng 8,86%. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của toàn ngành và toàn nền kinh tế (tăng 11,29%).
Trong lĩnh vực ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2019 ước tính đạt tốc độ tăng trưởng 8,1%, cao hơn nhiều so với mức trung bình thế giới và khu vực (Thái Lan tăng 4%, Malaysia giảm 1,8%, Indonesia giảm 5,7%), đảm bảo chỉ tiêu đặt ra của Quốc hội là đưa tăng trưởng xuất khẩu tăng 7%- 8% trong năm 2019. Trong đó, xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước tăng tới 17,7% lên 82,1 tỷ USD, cao hơn gấp 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung và cao hơn gấp 4 lần so với tăng trưởng của khối doanh nghiệp FDI (4,2%). Nhờ đó, tỷ trọng của khối doanh nghiệp trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung đã tăng lên mức 31,2% trong năm 2019, cải thiện đáng kể so với mức 28,6% của năm 2018.
Năm 2019 cũng là năm thứ năm liên tiếp Việt Nam ghi nhận xuất siêu với 9,94 tỷ USD. Đặc biệt, năm nay cũng ghi nhận lần đầu tiên các sản phẩm ngành chế biến, chế tạo đạt xuất siêu với gần 100 triệu USD, mặc dù giá trị không lớn, nhưng là tín hiệu rất đáng mừng, góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
Trong năm 2019, Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn FDI thực hiện năm 2019 ước tính đạt 20,4 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm trước. Ngoài ra, cả nước đã có 138,1 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.730,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.254,4 nghìn lao động, tăng 5,2% về số doanh nghiệp, tăng 17,1% về vốn đăng ký và tăng 13,3% về số lao động so với năm trước.
Trong khi đó, tính đến cuối năm 2019, tín dụng toàn hệ thống tăng 13,7% so với cuối năm 2018, giảm nhẹ so với mức 13,89% trong năm 2018 và cũng thấp hơn so với mục tiêu tăng 14% của năm 2019. Mặc dù giảm tốc nhưng mức tăng trưởng này được đánh giá phù hợp sau nhiều năm tín dụng tăng trưởng mạnh với mức tăng bình quân 15-16%/năm và tránh được rủi ro cho hệ thống khi tỷ lệ tín dụng/GDP đã lên đến 133% vào cuối năm 2018 - mức tương đối cao so với tốc độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam, đồng thời cũng là mức mà nhiều tổ chức quốc tế đã khuyến cáo khi đánh giá xếp hạng tín nhiệm Việt Nam.
Đây được đánh giá là những kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới trong năm qua diễn biến rất phức tạp, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng năm 2019.
KINH TẾ THẾ GIỚI
Kinh tế thế giới năm 2019 đã đối mặt với hàng loạt rủi ro, trong đó đáng chú ý nhất là những diễn biến xoay quanh căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ và Trung Quốc, tiến trình Brexit và bất ổn địa chính trị leo thang tại nhiều khu vực trên thế giới. Đây là những yếu tố chính tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu và khiến hoạt động kinh tế, thương mại tại hầu hết các nền kinh tế chủ chốt đều suy giảm. Trong năm 2019, giảm lãi suất và nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa là xu hướng mở rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, riêng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã ba lần hạ lãi suất xuống còn 1,5-1,75% nhằm hỗ trợ nền kinh tế do tốc độ tăng trưởng chậm của nền kinh tế toàn cầu, lạm phát dưới mục tiêu và những bất ổn do cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung Quốc kéo dài.
Mặc dù kinh tế thế giới đã ghi nhận những tín hiệu khả quan hơn trong giai đoạn cuối năm 2019 với việc Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận giai đoạn 1 và dự kiến sẽ chính thức ký kết vào ngày 15/1/2020, kết quả bầu cử tại Anh đã định hình rõ nét hơn hướng đi của Brexit, hầu hết các nền kinh tế lớn đã đẩy lùi được nguy cơ suy thoái, xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệ của nhiều NHTW lớn trong thời gian gần đây cộng với hàng loạt Hiệp định Thương mại Tự do quy mô lớn (như RCEP, AFCFTA, CPTPP) đã cơ bản hoàn tất hoặc chính thức có hiệu lực, nhưng bất ổn vẫn đang hiện hữu rõ nét, đe dọa đến triển vọng năm 2020.
Trong báo cáo mới nhất, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm trong năm tới, xuống 2,9% - mức thấp nhất kể từ đợt suy thoái toàn cầu năm 2009. Trong báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) mặc dù lạc quan hơn khi dự đoán kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 3,4% trong năm 2020, song cảnh báo kinh tế có khả năng giảm tốc và chưa chắc đã phục hồi trở lại.
Trong những ngày đầu tháng 01 năm 2020, kinh tế thế giới chứng kiến hàng loạt căng thẳng địa chính trị tại các khu vực, đặc biệt là mâu thuẫn chính trị leo thang giữa Mỹ và một số nước Trung Đông, tác động tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu, khiến thị trường chứng khoán lao dốc trong khi các tài sản mang tính trú ẩn an toàn và dầu thô đồng loạt tăng giá. Trong khi đó, hoạt động sản xuất của hầu hết các nền kinh tế hàng đầu thế giới đều có diễn biến kém khả quan, làm dấy lên lo ngại xu hướng giảm tốc của kinh tế và thương mại toàn cầu khó có thể sớm được cải thiện.
Tại Mỹ, lĩnh vực sản xuất, chế tạo của Mỹ đã rơi vào tình trạng suy thoái sâu nhất trong hơn một thập kỷ vào tháng 12/2019 trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc ảnh hưởng lớn tới sản lượng, đơn đặt hàng và việc làm của lĩnh vực này. Theo số liệu của Viện Quản lý Nguồn cung (ISM), chỉ số quản lý sức mua (PMI) trong lĩnh vực sản xuất của các nhà máy tại Mỹ đã giảm xuống 47,2 vào tháng 12/2019 từ mức 48,1 ghi nhận trong tháng 11/2019, đánh dấu mức thấp nhất của chỉ số này kể từ tháng 6/2009 và đánh dấu tháng thứ 5 liên tiếp ngành chế tạo của Mỹ suy giảm. Tuy nhiên, kinh tế Mỹ vẫn đang được hỗ trợ nhờ xu hướng tích cực trong lĩnh vực dịch vụ và sự ổn định của thị trường lao động cùng với chuyển biến tích cực hơn trong lĩnh vực ngoại thương. Trong tháng 12/2019, chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ của Mỹ theo tính toán của ISM đã tăng 1,1 điểm so với tháng trước lên 55 - mức cao nhất của chỉ số này kể từ tháng 8/2019. Trên thị trường lao động, trong tháng 12/2019, khu vực tư nhân Mỹ đã tạo thêm được 202.000 việc làm, cao hơn nhiếu so với mức dự báo 160.000 việc làm và mức 124.000 việc làm đã tạo ra trong tháng 11/2019. Trong khi đó, số liệu từ Bộ Thương mại Mỹ cho thấy, thâm hụt thương mại của nước này trong tháng 11/2019 đã giảm xuống còn 43,1 tỷ USD, mức thấp nhất trong vòng ba năm qua, với nhập khẩu giảm 1,7% trong khi xuất khẩu tăng nhẹ 0,7%. Như vậy, đây là tháng đầu tiên đánh dấu thành công bước đầu trong việc thực hiện mục tiêu cắt giảm thâm hụt thương mại của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Tại Trung Quốc, chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất theo tính toán của Markit/Caixin trong tháng 12/2019 đạt 51,5 điểm, mặc dù vẫn duy trì trên mốc tăng trưởng 50 điểm nhưng vẫn thấp hơn so với mức tăng 51,8 điểm trong tháng trước và cho thấy hoạt động sản xuất của nước này đã có xu hướng giảm tốc. Chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ - động lực tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc trong tháng 12/2019 cũng giảm từ mức 53,5 điểm xuống 52,5 điểm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc trong tháng 12/2019 tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước - mức cao nhất trong vòng 8 năm trở lại đây, mà nguyên nhân chủ yếu vẫn do sự tăng mạnh của giá thịt lợn khi cơn sốt dịch tả lợn châu Phi kéo giảm đàn lợn nước này. Tuy nhiên, chỉ số giá bán nhà sản xuất (PPI) - một thước đo về hoạt động của doanh nghiệp - đã giảm 0,5% so với tháng 12/2018, giảm mạnh hơn so với mức dự báo giảm 0,4% trước đó. Đây được đánh giá là dấu hiệu phục hồi nhẹ của hoạt động sản xuất, đồng thời cho thấy các biện pháp kích thích kinh tế của Trung Quốc có thể đã giúp ổn định nền kinh tế. Trong tuần đầu tháng 1/2020, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) tiếp tục chính sách nới lỏng tiền tệ với quyết định hạ 50 điểm cơ bản tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng kể từ ngày 6/1 nhằm gia tăng chính sách hỗ trợ đà tăng trưởng kinh tế.
Mọi thông tin Quý độc giả vui lòng liên hệ;
Phòng Thông tin Xuất nhập khẩu
- Địa chỉ: Phòng 603 Tòa nhà Bộ Công Thương, số 655 đường Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
- Điện thoại: 024 3715 2584/ 371525 85/ 3715 2586 Fax: 024 3715 2574
Người liên hệ:
- Mrs Huyền; 0912 077 382 ( thuhuyenvitic@gmail.com)
- Mrs Nhuận; 0982 198 206 (hongnhuan82@gmail.com)
- Mrs Kiều Anh; 0912 253 188 (kieuanhvitic@gmail.com)
Để có thông tin đầy đủ Quý độc giả vui lòng tải mẫu phiếu đăng ký sử dụng bản tin tại đây;
Phòng TTXNK
-
Báo cáo mới nhất về Đánh giá tác động của dịch Corona đến kinh tế Trung Quốc và Việt Nam của Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho biết
-
Trung Quốc sẽ không nâng hạn ngạch nhập khẩu hàng năm và có thuế thấp đối với ngô, lúa mì và gạo nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và hiệu Bắc Kinh sẽ làm thế nào để đáp ứng mục tiêu chi hàng tỷ USD mua nông sản Mỹ.
-
Năm 2020, lãi suất huy động có khả năng tiếp tục hạ dựa trên 2 nền tảng là thanh khoản hệ thống ngân hàng và định hướng từ Chính phủ. Giá cả hàng hóa và thị trường ngoại hối là các biến số có thể làm nhanh hoặc chậm việc hạ lãi suất.
-
Ðể biến khát vọng thịnh vượng của dân tộc thành hiện thực, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50/NQ-TW ngày 20-8-2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài (ÐTNN) đến năm 2030.