Hoạt động thương mại giữa Việt Nam với thị trường Canada trong tháng 6/2024
Tình hình kinh tế, thương mại nổi bật của thị trường Canada trong tháng 6/2024
- Tăng trưởng GDP
Kinh tế Canada tăng trưởng 0,4% trong quý đầu tiên của năm 2024, chủ yếu được thúc đẩy bởi chi tiêu hộ gia đình tăng 0,7%, trong đó chi tiêu cho các dịch vụ như viễn thông, tiền thuê nhà và vận tải hàng không tăng đáng kể 1,1%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng nhẹ 0,4% trong khi xuất khẩu tăng 0,5%; đầu tư vốn kinh doanh cũng tăng 0,8% do tăng chi tiêu cho các công trình kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực dầu khí.
Trên cơ sở hàng năm, GDP thực tế tăng 1,7%, tốc độ cao nhất kể từ quý 1 năm 2023, mặc dù không đạt được kỳ vọng của thị trường về mức tăng trưởng 2,2%.
Nền kinh tế Canada rất đa dạng và phát triển cao. Ngoại thương chiếm khoảng 45% GDP của quốc gia và Hoa Kỳ cho đến nay là đối tác thương mại lớn nhất. Về mặt chi tiêu, tiêu dùng hộ gia đình là thành phần chính của GDP và chiếm 58% tổng mức sử dụng, tiếp theo là tổng hình thành vốn cố định (22%) và chi tiêu chính phủ (19%). Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chiếm 32% GDP trong khi nhập khẩu chiếm 33%, trừ 1% tổng GDP. Các tổ chức phi lợi nhuận phục vụ chi tiêu tiêu dùng cuối cùng và đầu tư vào hàng tồn kho của hộ gia đình chiếm 2% còn lại.
Tradingeconomics ước tính GDP của Canada tăng 0,1% vào tháng 5 năm 2024, do sự gia tăng trong sản xuất, bất động sản cho thuê và bảo hiểm đã được bù đắp một phần bởi sự sụt giảm trong thương mại bán lẻ và bán buôn. Trong tháng 4/2024, kinh tế Canada đã tăng trưởng 0,3%, các ngành sản xuất hàng hóa tăng trưởng 0,3%, được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng trong sản xuất (+ 0,4%), nông nghiệp, lâm nghiệp & đánh bắt cá (+ 0,6%) và khai thác mỏ, khai thác đá, dầu khí (+ 0,6%); các ngành sản xuất dịch vụ cũng tăng trưởng 0,3%, chủ yếu do sự tăng trưởng trong thương mại bán buôn (2%) và dịch vụ lưu trú & thực phẩm (+ 1,2%).
- Lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Canada đã tăng lên 2,9% trong tháng 5/2024, tăng so với mức 2,7% của tháng 4/2024. Mặc dù vẫn nằm trong phạm vi mục tiêu là duy trì ở mức gần 3% trong nửa đầu năm nay, nhưng việc dừng xu hướng giảm phát có thể sẽ khiến Ngân hàng trung ương Canada sẽ phải tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Giá cả tăng tốc đối với giao thông vận tải (3,5% trong tháng 5/2024 so với 3,1% của tháng 4/2024), được thúc đẩy bởi mức tăng 4,5% của giá vận tải hàng không. Lạm phát cũng cao hơn đối với thực phẩm (2,5% so với 2,4%) trong bối cảnh chi phí tạp hóa tăng cao (1,5% so với 1,4%). Ngoài ra, chi phí tăng nhanh hơn đối với sức khỏe và chăm sóc cá nhân (3,6% so với 3%) và giảm ở mức nhỏ hơn đối với hoạt động gia đình, đồ đạc và thiết bị (-1,5% so với -2,1%). So với tháng trước đó, CPI của Canada tháng 5/2024 tăng 0,6%.
- Chỉ số sản xuất PMI:
Theo S&P Global, chỉ số sản xuất PMI của Canada giảm từ mức 49,4 trong tháng 4/2024 xuống 49,3 trong tháng 5/2024. Hoạt động của các nhà máy ở Canada đã giảm tháng thứ 13 liên tiếp. Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm với tốc độ nhanh hơn do môi trường kinh tế và chính trị không ổn định, cùng với nhu cầu từ khách hàng trong nước và quốc tế giảm. Mặc dù có đủ lượng hàng tồn kho nhưng hoạt động mua hàng vẫn giảm, mức tồn kho vẫn tăng nhẹ. Việc làm tăng trong khi chi phí đầu vào tăng tháng thứ 12 liên tiếp, mặc dù với tốc độ chậm hơn. Áp lực cạnh tranh đã hạn chế khả năng chuyển chi phí sang khách hàng của các công ty, duy trì mức tăng nhẹ về phí đầu ra trong tháng thứ 46 liên tiếp. Sự chậm trễ trong chuỗi cung ứng và giá đầu vào tăng vẫn tiếp diễn, phản ánh những thách thức đang diễn ra của kinh tế Canada.
Tình hình thương mại của thị trường trong tháng
- Xuất khẩu: Tháng 4/2024, xuất khẩu của Canada tăng ở 8/11 mặt hàng. Các sản phẩm năng lượng có mức tăng lớn nhất, tăng 378 triệu USD hay 2,7% so với tháng 3/2024. Sau mức thấp trong tháng 3, xuất khẩu khí đốt tự nhiên đã tăng 60,1% trong tháng 4. Xuất khẩu dầu thô tăng 3,0%, do khối lượng xuất khẩu dầu thô phục hồi, do công suất lọc dầu ở Trung Tây Hoa Kỳ tăng lên.
Đóng góp lớn thứ hai vào mức tăng chung trong xuất khẩu của Canada là các sản phẩm khoáng sản kim loại và phi kim loại, tăng 4,7%. Xuất khẩu kim loại nhóm vàng, bạc và bạch kim chưa gia công cùng các hợp kim của chúng tăng 15,4% trong bối cảnh nhu cầu vàng cao và bất ổn địa chính trị.
Xuất khẩu nông sản, thủy sản và thực phẩm trung gian tăng 5,5% sau khi giảm vào tháng 3/2024. Ngoài ra, máy bay và các thiết bị và phụ tùng vận tải khác cũng tăng 8,6%. Trong khi đó, xuất khẩu dịch vụ không thay đổi trong tháng do du lịch giảm 1,5% và vận tải giảm 0,7% được bù đắp bằng xuất khẩu dịch vụ thương mại tăng 0,7%.
Xuất khẩu hàng hóa của Canada sang Hoa Kỳ tăng 2,4%, chủ yếu là do xuất khẩu dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng Trong khi đó, nhập khẩu hàng hóa tăng 1,8%, vì nhập khẩu xe thể thao đa dụng và xe tải nhẹ từ Hoa Kỳ của Canada tăng vào tháng 4. Khi xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu, thặng dư thương mại hàng hóa của Canada với Hoa Kỳ đã tăng từ 6,9 tỷ đô la vào tháng 3 lên 7,3 tỷ đô la vào tháng 4.
Xuất khẩu hàng hóa của Canada sang các quốc gia ngoài Hoa Kỳ tăng 3,1%. Xuất khẩu quặng đồng và propan hóa lỏng sang Nhật Bản và vàng chưa gia công sang Vương quốc Anh tăng theo tháng. Ngoài ra, xuất khẩu nhiều sản phẩm khác nhau sang Mexico cũng tăng.
- Nhập khẩu: Theo số liệu của Trademap (ITC), tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Canada từ các nguồn cung trong quý 1/2024 giảm 0,93% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 133,55 tỷ USD.
Hoa Kỳ là nguồn cung lớn nhất của Canada, chiếm 50% tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ tất cả các nguồn cung. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu của Canada từ Hoa Kỳ trong quý 1/2024 đã giảm 0,19% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trung Quốc là nguồn cung lớn thứ hai của Canada, chiếm 11% tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ tất cả các nguồn cung. Kim ngạch nhập khẩu của Canada từ Trung Quốc trong quý 1/2024 giảm 6,04% so với quý 1/2023.
ASEAN cũng là nguồn cung chính cho Canada, chiếm khoảng 4% tỷ trọng. Đáng chú ý là trong khi giảm nhập khẩu từ các nguồn cung lớn nhất thì nhập khẩu của Canada trong quý 1/2024 từ hầu hết các quốc gia xuất khẩu trong ASEAN lại tăng so với cùng kỳ năm trước như: Thái Lan (+2,56%), Indonesia (+23,56%), Singapore (+13,4%), Campuchia (+0,15%). Chỉ có Malaysia giảm 10,37%, Philippines giảm 11,6%. Trong các nước ASEAN, Việt Nam là đối tác nhập khẩu quan trọng nhất của Canada, chiếm 44% tổng kim ngạch Canada nhập khẩu từ khu vực này. Theo số liệu của Trademap, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Canada từ Việt Nam trong quý 1/2024 đã tăng 9,31% so với quý 1/2023.
Tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với thị trường trong tháng
- Về xuất khẩu:
Tháng 5/2024, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Canada đạt 504,50 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 52,78 triệu USD, dẫn đến thặng dư thương mại gần 451,72 triệu USD. Tính trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đạt 2,22 tỷ USD thặng dư thương mại với Canada, tăng 12,94% so với cùng kỳ năm ngoái, khi tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 2,51 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ thị trường này đạt 293,8 triệu USD.
Thực tế cho thấy sau khi CPTPP có hiệu lực, xuất khẩu các mặt hàng hưởng thuế bằng 0 như: Điện thoại, điện tử, điện máy, rau củ quả hạt điều, cà phê… sử dụng form ưu đãi nào sang Canada cũng tăng khá. Có những mặt hàng tăng trên 100%, cho thấy CPTPPP thực sự có tác động đòn bẩy.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, nhóm hàng máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, một trong các mặt hàng có trị giá xuất khẩu cao sang Canada, đạt kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng năm 2024 là 364,18 triệu USD, tăng 118,01% so với cùng kỳ năm 2023. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là nhóm hàng xếp vị trí thứ 3 về trị giá xuất khẩu sang Canada, tăng 68,69%, đạt 295,19 triệu USD.
Giày dép các loại là mặt hàng đứng thứ 5 về trị giá xuất khẩu sang Canada, cũng có sự tăng trưởng 9,1%, đạt 215,77 triệu USD trong 5 tháng đầu năm 2024.
Bảng 2: Xuất khẩu một số hàng hoá của Việt Nam sang Canada trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024
Nhóm/mặt hàng |
T5/2024 (USD) |
So T5/2023 (%) |
5T/2024 (USD) |
So 5T/2023 (%) |
Tỷ trọng trong tổng KNXK sang thị trường (%) |
---|---|---|---|---|---|
Hàng dệt, may |
101.731.286 |
-15,82 |
439.435.653 |
-4,34 |
17,48 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
47.247.086 |
30,89 |
364.180.305 |
118,01 |
14,48 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
60.389.503 |
19,84 |
295.195.709 |
68,69 |
11,74 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
46.946.031 |
-35,25 |
216.599.918 |
-43,11 |
8,61 |
Giày dép các loại |
48.573.157 |
23,5 |
215.767.101 |
9,1 |
8,58 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
42.208.627 |
-32,53 |
161.474.588 |
-14,12 |
6,42 |
Hàng thủy sản |
22.256.805 |
25,8 |
95.331.431 |
41,45 |
3,79 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
16.482.157 |
4,66 |
93.994.037 |
24,05 |
3,74 |
Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù |
15.108.109 |
-24,97 |
73.644.114 |
-7,87 |
2,93 |
Kim loại thường khác và sản phẩm |
13.432.068 |
-29,49 |
57.272.040 |
3,72 |
2,28 |
Sản phẩm từ sắt thép |
7.567.360 |
-15,75 |
53.752.277 |
54,98 |
2,14 |
Hạt điều |
6.278.902 |
-29,79 |
38.430.067 |
19,17 |
1,53 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
5.553.004 |
59,74 |
31.557.697 |
68,6 |
1,26 |
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận |
5.257.578 |
-3,71 |
28.011.225 |
-0,13 |
1,11 |
Hàng rau quả |
5.590.947 |
37,97 |
25.624.936 |
63,45 |
1,02 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
2.586.400 |
34,08 |
11.762.639 |
22,61 |
0,47 |
Cà phê |
875.745 |
-51,44 |
10.851.809 |
5,62 |
0,43 |
Vải mành, vải kỹ thuật khác |
2.333.375 |
207,16 |
9.547.104 |
45,61 |
0,38 |
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm |
1.915.729 |
84,47 |
9.068.950 |
56,23 |
0,36 |
Hạt tiêu |
1.725.865 |
94,56 |
8.180.750 |
64,41 |
0,33 |
Hóa chất |
1.227.441 |
-34,93 |
7.367.618 |
-11,89 |
0,29 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện |
2.802.947 |
-17,29 |
6.790.310 |
48,87 |
0,27 |
Cao su |
266.004 |
113,19 |
3.412.765 |
47,72 |
0,14 |
Chất dẻo nguyên liệu |
868.268 |
-40,46 |
3.205.506 |
-28,08 |
0,13 |
Sản phẩm gốm, sứ |
251.148 |
8,51 |
2.061.541 |
0,32 |
0,08 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh |
334.757 |
45,5 |
1.467.359 |
123,26 |
0,06 |
Nguồn: Thống kê sơ bộ từ số liệu hải quan
- Về nhập khẩu:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, mặt hàng phân bón, là một trong các mặt hàng có trị giá nhập khẩu từ Canada cao, đạt kim ngạch nhập khẩu trong 5 tháng năm 2024 là 29,75 triệu USD, tăng tới 1152,24% so với cùng kỳ năm 2023. Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác là nhóm hàng xếp vị trí thứ 4 về trị giá nhập khẩu từ Canada, tăng 66,08%%, đạt gần 26,29 triệu USD.
Chất dẻo nguyên liệu là mặt hàng đứng thứ 5 về trị giá nhập khẩu từ Canada, cũng có sự tăng trưởng khá là 74,11%, đạt xấp xỉ 11,88 triệu USD trong 5 tháng đầu năm 2024.
Bảng 3: Nhập khẩu một số hàng hoá của Việt Nam từ Canada trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024
Nhóm/mặt hàng |
T5/2024 (USD) |
So T5/2023 (%) |
5T/2024 (USD) |
So 5T/2023 (%) |
Tỷ trọng trong tổng KNNK từ thị trường (%) |
---|---|---|---|---|---|
Lúa mì |
1.223.400 |
-95,16 |
39.526.639 |
-38,96 |
13,45 |
Phân bón các loại |
977.320 |
-51,11 |
29.750.835 |
1152,24 |
10,13 |
Đậu tương |
7.994.085 |
-21,29 |
29.283.210 |
-24,69 |
9,97 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
3.134.059 |
-52,34 |
26.288.180 |
66,08 |
8,95 |
Chất dẻo nguyên liệu |
1.996.126 |
57,65 |
11.877.715 |
74,11 |
4,04 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu |
2.904.226 |
30,02 |
11.679.192 |
56,64 |
3,98 |
Dược phẩm |
6.891.474 |
1375,10 |
10.985.212 |
379,19 |
3,74 |
Hàng thủy sản |
1.310.779 |
-44,29 |
8.547.457 |
0,65 |
2,91 |
Phế liệu sắt thép |
1.421.120 |
-38,11 |
8.121.767 |
46,35 |
2,76 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
2.637.588 |
132,06 |
7.742.514 |
25,32 |
2,64 |
Sản phẩm hóa chất |
676.769 |
-46,52 |
6.697.176 |
22,25 |
2,28 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
1.237.487 |
16,77 |
4.708.414 |
32,17 |
1,60 |
Hàng rau quả |
191.042 |
-70,13 |
4.570.892 |
-30,22 |
1,56 |
Kim loại thường khác |
279.899 |
-38,31 |
1.941.735 |
8,62 |
0,66 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm |
326.783 |
32,79 |
1.313.116 |
-58,14 |
0,45 |
Phương tiện vận tải khác và phụ tùng |
150.411 |
9,19 |
1.250.191 |
-69,12 |
0,43 |
Sản phẩm từ sắt thép |
145.504 |
-53,33 |
978.128 |
48,01 |
0,33 |
Cao su |
416.211 |
886,05 |
667.248 |
656,97 |
0,23 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
154.976 |
-44,81 |
657.371 |
-24,06 |
0,22 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày |
50.280 |
-70,87 |
393.423 |
-38,57 |
0,13 |
Quặng và khoáng sản khác |
|
-100,00 |
380.327 |
-81,55 |
0,13 |
Sắt thép các loại |
|
|
199.545 |
331,05 |
0,07 |
Nguồn: Thống kê sơ bộ từ số liệu hải quan
Hiện Việt Nam có tiềm năng lớn ở nhiều sản phẩm nông, lâm, thủy sản và các sản phẩm công nghiệp nhẹ. Trong khi đó, Canada lại là một quốc gia công nghiệp phát triển giàu tài nguyên, có thế mạnh sản xuất và xuất khẩu nhiều nguyên liệu và các sản phẩm công nghiệp nặng. Sự bổ sung tương đối trong cơ cấu sản phẩm của Việt Nam và Canada hứa hẹn tạo ra nhiều cơ hội và giá trị gia tăng cho thương mại song phương. Cùng đó, với cam kết cắt giảm thuế quan mạnh, các quy tắc thuận lợi hóa hải quan, hạn chế các rào cản phi thuế… CPTPP chính là con đường thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và Canada phát triển mạnh trong thời gian tới.
- Thông tin chi tiết xem tại đây;
Thùy Dương (VITIC) tổng hợp
-
Chile là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất của Mỹ Latinh chủ yếu là do xuất khẩu đồng. Trong những năm gần đây, đất nước này đã đa dạng hóa cơ sở công nghiệp của mình và đã trở thành một trường hợp thành công trong sản xuất cá hồi và rượu vang.
-
Trong 5 tháng đầu năm 2024, tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có những bước tiến đáng kể, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ cà phê thế giới.
-
Trong những năm gần đây, thương mại song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc, đóng góp quan trọng vào sự thịnh vượng kinh tế của cả hai quốc gia. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong giai đoạn 2020-2023, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã liên tục có dấu hiệu tăng trưởng, trung bình đạt trên 76 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn từ 2020-2023, kim ngạch thương mại song phương đạt đỉnh vào năm 2022 với trị giá xuất nhập khẩu đạt 86,55 triệu USD và thấp nhất là vào năm 2020 với 66,02 triệu USD.
-
Hiện nay, mặc dù vẫn chịu nhiều tác động từ biến động địa chính trị nhưng giao thương hàng hóa giữa Việt Nam và Nga trong năm 2023 và đầu năm 2024 đã có bước chuyển biến tích cực.