Động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ
Góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2025, Vĩnh Phúc là tỉnh công nghiệp phát triển, một trong những trung tâm công nghiệp của cả nước và đưa lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) của tỉnh trở thành một "mắt xích" cung cấp sản phẩm CNHT có hàm lượng giá trị cao trong dây chuyền sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh của các tập đoàn, doanh nghiệp (DN) lớn trong nước và quốc tế, tiến tới đẩy mạnh xuất khẩu, cuối tháng 12/2021, UBND tỉnh đã ban hành quyết định Chương trình phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025.

Nhằm thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực CNHT, Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách với các giải pháp cụ thể, điển hình như: Quyết định số 39 của UBND tỉnh quy định về hỗ trợ DN sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục ưu tiên phát triển trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 2707 của UBND tỉnh phê duyệt Đề án khuyến khích phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2017-2025; Kế hoạch số 167 của UBND tỉnh về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT....
Đến nay, hệ thống hạ tầng trong và ngoài khu, cụm công nghiệp (KCN, CCN) của tỉnh đã tương đối hoàn thiện với 14 KCN được thành lập và quyết định chủ trương đầu tư, 16 CCN đã được thành lập và giao chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng, tạo mặt bằng cho các DN phát triển tập trung.
Số lượng DN CNHT phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến hết năm 2021, trên địa bàn tỉnh có hơn 340 dự án hoạt động SXKD các sản phẩm CNHT (tăng hơn 2,4 lần so với năm 2016). Số dự án CNHT nhiều nhất thuộc nhóm CNHT Điện - Điện tử, tiếp theo là CNHT Cơ khí chế tạo, sau đó là CNHT ô tô - xe máy.
Năng lực sản xuất sản phẩm CNHT trong tỉnh dần được cải thiện. Một số DN trong tỉnh đã có thể cung cấp một số phụ tùng, linh kiện như: Phụ tùng, linh kiện nhựa, cao su cho các sản phẩm điện tử, ô tô xe máy; phụ tùng linh kiện nhôm và kim loại cho ô tô, xe máy và các sản phẩm máy móc, thiết bị.
Nhờ khả năng cung cấp một số linh kiện, phụ tùng cho các ngành công nghiệp trong tỉnh, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp tại tỉnh đã được nâng lên.
Đơn cử, ngành sản xuất xe máy tại Công ty Honda Việt Nam (HVN), các sản phẩm linh kiện hầu hết đã được sản xuất và cung ứng tại Việt Nam.
Hiện, HVN có 240 nhà cung cấp, trong đó, có 105 công ty Việt Nam (chiếm 43,7%), khoảng 13% tại Vĩnh Phúc, điển hình là các đơn vị như Công ty Công nghiệp chính xác Việt Nam I (VPIC I), Cosmos, Lâm Viễn.... Tỷ lệ nội địa hoá của HVN đã đạt trên 90%.
Tuy nhiên, việc tiếp cận các chính sách ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước cũng như việc xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường của các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển theo Nghị định số 111 của Chính phủ gặp rất nhiều khó khăn.
Các DN trong nước tham gia sản xuất CNHT còn hạn chế; trình độ quản trị DN thấp dẫn đến chi phí quản lý, giá thành sản phẩm cao...
Thông tin kết nối phát triển các lĩnh vực, sản phẩm CNHT còn thiếu, dẫn đến giữa DN sản xuất và lắp ráp không thể hợp tác. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu của các ngành CNHT dẫn đến DN phải bỏ thêm chi phí và thời gian để đào tạo lại.
Đây là những trở ngại lớn trong quá trình thúc đẩy phát triển các ngành CNHT, nhất là các ngành mang tính kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại và có hàm lượng công nghệ cao.
Nhằm phát huy lợi thế so sánh của tỉnh và khai thác được các cơ hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các yêu cầu của nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh trong và ngoài nước, UBND tỉnh vừa ban hành Quyết định Chương trình phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu có trên 50 DN trong lĩnh vực linh kiện phụ tùng đủ điều kiện phát triển trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 cho các hãng sản xuất sản phẩm ô tô, xe máy, điện, điện tử hoàn chỉnh và cung ứng một phần cho DN, tập đoàn kinh tế lớn hoặc xuất khẩu; có 10 DN trong nước sản xuất sản phẩm CNHT có thể tham gia vào chuỗi giá trị của các tập đoàn kinh tế lớn, sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quốc tế và tham gia được vào thị trường xuất khẩu...
Tổng kinh phí thực hiện chương trình là hơn 94 tỷ đồng bao gồm: Kết nối, hỗ trợ DN CNHT trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước, xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT; hỗ trợ DN CNHT áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất trong quản trị DN, quản trị sản xuất.
Hỗ trợ DN CNHT đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm CNHT; hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; hỗ trợ DN CNHT tiếp cận thông tin, giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất...
Việc thực hiện có hiệu quả chương trình này sẽ giúp ngành CNHT của tỉnh có bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới.
-
Bộ Công Thương đã ban hành Chỉ thị số 14 /CT-BCT về việc tăng cường hỗ trợ tiêu thụ nông sản tại thị trường trong nước nhằm giảm áp lực cho thị trường xuất khẩu trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp.
-
Công nghiệp hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giúp nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh, tăng giá trị gia tăng và sự phát triển bền vững cho nền kinh tế quốc dân.
-
Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đến năm 2020 (Đề án) do Bộ Công Thương chủ trì được triển khai từ năm 2007 đến năm 2020. Trong 13 năm thực hiện, Đề án đã phê duyệt triển khai 148 nhiệm vụ khoa học công nghệ
-
Đợt dịch Covid lần thứ 4 bùng phát với tốc độ lây lan chưa từng có tại nhiều địa phương trong cả nước, gây ra nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và chuỗi sản xuất công nghiệp…





