VITIC
TIN TỨC- SỰ KIỆN

Đẩy mạnh xanh hóa để phát triển bền vững ngành dệt may Việt Nam

08/02/2022 11:35

Để phát triển bền vững ngành dệt may trong bối cảnh thị trường đầy biến động, doanh nghiệp cần thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT), tự chủ nguồn nguyên liệu sản xuất. Bên cạnh đó, cần bắt kịp xu thế sản xuất của thế giới để không bị tụt hậu.

Sau quãng thời gian giãn cách xã hội, đình trệ sản xuất do đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ tư, đặc biệt tại các tỉnh thành phía Nam, sản xuất ngành dệt may đang dần tăng trưởng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng 01/2022, tiến độ sản xuất đang dần trở lại, dù tốc độ tăng trưởng còn thấp hơn so với cùng kỳ những năm trước. Tuy nhiên, đây vẫn là kết quả khả quan trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp và các doanh nghiệp vẫn còn chịu nhiều biến động, đặc biệt là những biến động liên quan tới lao động. Dự báo, tốc độ sản xuất của ngành dệt may tiếp tục cải thiện trong những tháng tới, do dịch bệnh được kiểm soát tốt, kinh tế thế giới tiếp tục khởi sắc và hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ kịp thời của Chính phủ được thực hiện đồng bộ.

Bảng 1: Chỉ số sản xuất ngành dệt, may của Việt Nam trong tháng 01 năm 2022  (ĐVT:%)

 

Năm 2022

Năm 2021

Ngành

Tháng 01/2022 so với tháng 12/2021

Tháng 01/2022 so với T01/2021

Tháng 01/2021 so với T12/2020

Tháng 01/2021 so với T01/2020

Dệt

-1,92

8,81

-2,0

16,56

Sản xuất trang phục

-2,77

11,37

-3,14

9,88

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Bảng 2: Sản lượng sản xuất một số mặt hàng ngành dệt và may mặc trong tháng 01 năm 2022

Tên hàng

ĐVT

T1/2022

So với T12/2021 (%)

So với T1/2021 (%)

Áo sơ mi cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc

1000 cái

66.106

-6,13

-1,59

Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần
yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc

1000 cái

70.839

-3,07

-23,43

Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần
yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan
móc

1000 cái

255.124

-2,60

8,36

Quần áo lót cho người lớn dệt kim hoặc đan móc

1000 cái

31.520

0,32

11,47

Quần áo lót cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc

1000 cái

100.469

-3,18

24,86

Sợi tơ (filament) tổng hợp

Tấn

196.646

3,20

5,62

Sợi từ bông (staple) tổng hợp có tỷ trọng của loại bông
này dưới 85%

Tấn

30.415

-5,08

4,30

Sợi xe từ các loại sợi tự nhiên: bông, đay, lanh, xơ dừa,
cói ...

Tấn

168.889

-5,18

11,30

Vải dệt thoi khác từ sợi bông

1000 m2

19.523

0,38

44,42

Vải dệt thoi từ sợi bông có tỷ trọng bông từ 85% trở lên

1000 m2

59.892

-4,58

-10,51

Vải dệt thoi từ sợi tơ (filament) nhân tạo

1000 m2

88.810

0,42

-0,69

Vải dệt thoi từ sợi tơ (filament) tổng hợp

1000 m2

43.300

12,94

-5,18

Bao và túi dùng để đóng, gói hàng từ nguyên liệu dệt
khác

1000 cái

60.073

1,01

10,15

Các loại mền chăn, các loại chăn nhồi lông, các loại nệm, đệm, nệm ghế, nệm gối, túi ngủ và loại tương tự có gắn lò xo hoặc nhồi hoặc lắp bên trong bằng vật liệu nhựa hoặc bằng cao su hoặc bằng chất dẻo xốp

1000 cái

4.708

-15,05

46,76

Khăn mặt, khăn tắm và khăn khác dùng trong phòng vệ
sinh, nhà bếp

Tấn

10.751

-9,29

49,07

Màn bằng vải tuyn

1000 cái

13.000

-17,98

3,47

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Dù thị trường dệt may khởi sắc trong năm nay, nhưng tổng cầu dự báo sẽ không tăng nhiều. Đặc biệt, việc thị trường khởi sắc khiến nhiều đối thủ của dệt may Việt Nam như: Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ… cũng tăng tốc và có nhiều nỗ lực để bù đắp những thiếu hụt về kim ngạch trong năm 2021.

Đơn cử, Trung Quốc đã phê duyệt kế hoạch 5 năm lần thứ 14 dành riêng cho ngành dệt may và tham vọng mục tiêu mở rộng thị phần ở những phân khúc có giá trị gia tăng cao nhất, tạo sức ép không nhỏ với dệt may Việt Nam trong năm 2022.Theo đó, trong 5 năm tới, dệt may Trung Quốc đi vào khoa học cơ bản, tự chủ 75% trang thiết bị và không ưu tiên phát triển theo chiều rộng. Đến năm 2025, 55% sản lượng sản xuất xơ hoá học, bao gồm xơ tái chế trên thị trường thế giới là do Trung Quốc sản xuất; giảm lượng sản xuất hàng may mặc từ 40% xuống còn 35%. Đặc biệt, dệt may Trung Quốc sẽ không giữ vững 39% thị phần như hiện nay mà giảm xuống còn khoảng 30% nhưng là thị phần của sản phẩm xanh, sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Hay như Ấn Độ, ngành dệt may chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia này. Ấn Độ định hướng tự chủ nguyên phụ liệu bằng cách đầu tư công viên dệt may lớn với diện tích khoảng 400ha/công viên, hiện đã có 80 công viên. Mục tiêu phát triển của Ấn Độ đến năm 2025, xuất khẩu dệt may tăng từ 35 tỷ USD lên 80 tỷ USD.

Còn với Bangladesh, năm 2021, 9 trong 10 nhà máy may mặc đạt các tiêu chí xanh cao hàng đầu thế giới được Hội đồng Xây dựng Xanh Mỹ cấp chứng nhận nằm ở Bangladesh. Quốc gia này tranh thủ trong thời gian thị trường dệt may phát triển tương đối thuận lợi để đi tắt một bước, từ sản xuất lạc hậu lên sản xuất xanh đạt tiêu chuẩn cao và đẩy ngành may, sợi đi theo hướng hiện đại bậc nhất.

Để phát triển bền vững ngành dệt may trong bối cảnh thị trường đầy biến động, doanh nghiệp cần thúc đẩy phát triển CNHT, tự chủ nguồn nguyên liệu sản xuất. Bên cạnh đó, cần bắt kịp xu thế sản xuất của thế giới để không bị tụt hậu.

Theo Bộ Công Thương, hiện Việt Nam mới chỉ chủ động được khoảng 30-40% nguyên liệu trong nước. Cụ thể là, Việt Nam mới cung cấp được 0,2% nhu cầu về bông, 30% nhu cầu xơ, còn lại là phải nhập khẩu từ Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan… Sản lượng sợi đạt 1,4 triệu tấn/ năm nhưng hơn 70% trong đó là xuất khẩu do chất lượng thấp, không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Đặc biệt, phần lớn doanh nghiệp trong ngành là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn hạn chế nên việc đầu tư cho nghiên cứu cũng như công nghệ chưa được chú trọng.

Trong khi đó, theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), doanh nghiệp muốn tự chủ sản xuất thì phải chủ động được nguồn nguyên liệu, phải có sự đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Tuy vậy, để đầu tư cho R&D cần nguồn vốn dài hạn và không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Chưa kể muốn phát triển ngành dệt may Việt Nam ngoài các yếu tố trên còn cần sự gắn kết và hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và các trường đào tạo.

Về vấn đề này, cần củng cố mạnh mẽ hơn việc liên kết để có thể cùng nhau tập trung đầu tư cho R&D. Bởi lẽ trong ngành dệt may, máy móc không còn là yếu tố duy nhất cần được đầu tư phát triển, mà bên cạnh đó cần đầu tư vào R&D. Trên

Nhận thấy những điểm hạn chế của ngành dệt may Việt Nam, thời gian qua nhiều doanh nghiệp dệt may đã đẩy mạnh nội địa hóa nguyên phụ liệu, đồng thời liên kết chặt chẽ với các trường để tìm kiếm nhân tài và nâng cao chất lượng gia tăng sản xuất. Chẳng hạn Công ty CP Dệt may- đầu tư- thương mại Thành Công (TCM), đã đầu tư hàng tỷ đồng cho R&D và hàng năm đều tuyển dụng sinh viên của Trường Đại học Bách khoa để trao cho các em cơ hội nghiên cứu ra những loại sợi vải vừa thân thiện môi trường lại vừa có tính ứng dụng cao.

Theo xu hướng chung của thế giới, quá trình đẩy mạnh “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam đã và đang tạo động lực thúc đẩy các nhà cung ứng nguyên liệu nội địa nghiên cứu và cho ra đời những sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

Công ty CP Kết nối Thời trang Faslink cũng tiên phong đầu tư mạnh cho R&D và cho ra thị trường nhiều loại sợi vải “xanh” từ sen, cà phê, bạc hà, tre… có tính ứng dụng cao và được thị trường đón nhận tích cực. Trong vòng 4 năm qua, nhu cầu về tiêu dùng của sản phẩm thời trang bền vững (sustainable fashion) rõ nét hơn vì càng nhiều các yêu cầu cung ứng vật tư của các doanh nghiệp tại nội địa đặt hàng với Faslink.Ước tính, chỉ riêng trong năm 2021, Faslink đã cung ứng cho thị trường khoảng 8 triệu mét vải nguyên liệu thành phẩm các loại và tất cả đều đáp ứng tiêu chí xanh.

Trên thực tế, theo VITAS, việc nội địa hóa nguyên phụ liệu cũng như “xanh hóa” các sản phẩm này đang là xu thế tất yếu mà doanh nghiệp Việt bắt buộc phải đáp ứng. Bởi lẽ trên thế giới quá trình chuyển đổi xanh của ngành dệt may thời trang ngày càng rõ rệt và người tiêu dùng không chấp nhận sử dụng những sản phẩm thời trang không có nguồn gốc rõ ràng, không bảo vệ môi trường; thậm chí là nếu doanh nghiệp sử dụng lao động không đúng theo cam kết quốc tế cũng sẽ không được chấp nhận.

Đến nay, đã có nhiều doanh nghiệp cung ứng nguyên phụ liệu giống như Faslink đang làm rất tốt việc nghiên cứu, sản xuất sản phẩm phù hợp với xu thế và thị hiếu của khách hàng.Tuy nhiên thị phần của ngành này vẫn còn rất lớn nên sẽ là cơ hội nếu các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư để nắm bắt kịp thời.

 

Nguồn: Phòng TTCN

Tin cũ hơn
Trụ sở chính
Địa chỉ: Tầng 5-6, Tòa nhà Bộ Công Thương, 655 Phạm Văn Đồng, P.Cổ Nhuế I, Q.Bắc Từ Liêm, TP.Hà Nội
Điện thoại: 0243.8262316 - 0243.9393360 
Email: ttthongtin@moit.gov.vn
Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh
Địa chỉ: Tầng 11, Trụ sở Bộ Công Thương - Số 12 Nguyễn Thị Minh Khai, P.Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028.3823 7216
Email: t_nguyenhuutam@yahoo.com
Chi nhánh Đà Nẵng
Địa chỉ: Tầng 4, Trụ sở Bộ Công Thương - Số 7B, đường CMT8, P.Hòa Cường Nam, Q.Hải Châu, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 02511.38356
Email: anhtuan7702@yahoo.com
Giấy phép số 153/GP-TTĐT ngày 5 tháng 7 năm 2024 của Bộ Thông tin Truyền thông.
Số người truy cập: 4.622.146