Ảnh hưởng của Hiệp định EVFTA đến các doanh nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp EU và khuyến nghị của Bộ Công Thương đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực phân phối
1. Thị trường phân phối Việt Nam trong bối cảnh thực thi EVFTA và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
Thị trường phân phối Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển do quy mô dân số lớn (khoảng 96 triệu người), cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18-50); dự báo chi tiêu hộ gia đình tăng trung bình 10,5%/năm và sẽ lên mức 714 USD/ tháng vào năm 2020, trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại thấp hơn nhiều nước trong khu vực (Việt Nam chỉ đạt 25% tổng mức bán lẻ, trong khi ở Philipin là 33%, Thái Lan là 34%, Malaysia 60%, Singapore là 90%...). Cùng với các yếu tố thuận lợi khác, trong thời gian qua làn sóng vốntrong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục "đổ" vào ngành bán lẻ Việt Nam. Có thể nhận thấy trên thị trường đã nổi lên một số nhà phân phối bán lẻ bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đang nắm giữ thị phần chủ yếu, cạnh tranh lẫn nhau và đi đầu trong những xu hướng bán lẻ mới. Các tập đoàn lớn kinh doanh bán lẻ lớn của nước ngoài như Lotte, Central Group, Aeon, Circle K, K Mart, Auchan, Family Mart… đã liên tục đẩy mạnh chiến lược thâm nhập và mở rộng thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Điều này cho thấy tiềm năng thị trường bán lẻ Việt Nam là rất lớn nhưng cuộc đua giành thị phần trong lĩnh vực này cũng ngày càng gay gắt.
Trong tương lai gần, khi hiệp định EVFTA có hiệu lực thực thi thì cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư, phân phối cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp lớn của các quốc gia thành viên EU đẩy mạnh đầu tư vào ngành phân phối, bán lẻ của Việt Nam. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn lực hạn chế, chỉ có một số ít doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Saigon Co.op, VinCommerce, Thegioididong, Bách hóa Xanh, Satra, BRG Retail … mới đủ năng lực để cạnh tranh, khẳng định vị thế của mình trên thị trường bán lẻ Việt Nam. Tốc độ thâm nhập và mở rộng ngày một gia tăng của các hãng phân phối nước ngoài đã gây sức ép rất lớn và là mối lo ngại cho các nhà bán lẻ nội địa. Nhiều hàng hóa sản xuất trong nước bị suy giảm thị phần, đặc biệt đối với phân khúc khách hàng cao cấp thiếu vắng thương hiệu Việt Nam. Các doanh nghiệp lớn của nước ngoài liên tục gia tăng thị phần và dự báo nhiều khả năng sẽ còn tăng với tốc độ rất nhanh trong thời gian tới.
Trước sức ép của hội nhập kinh tế, phải thực hiện cam kết mở cửa thị trường nội địa theo các cam kết của các hiệp định như CPTPP và sắp tới là EVFTA, dẫn đến sự thâm nhập mạnh mẽ của doanh nghiệp nước ngoài nhằm mở rộng chuỗi bán lẻ tại Việt Nam đang đặt ra những thách thức lớn, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải đưa ra quyết định kịp thời để phát triển thị trường bán lẻ nói riêng và thị trường trong nước nói chung trong bối cảnh mới. Ngày 28 tháng 4 năm 2016, Thủ tướng đã ban hành Nghị quyết 19-2016/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 - 2017, định hướng đến năm 2020. Từ đó đến nay, Nghị quyết này được rà soát và ban hành hàng năm nhằm tiếp tục thực hiện và duy trì những nhiệm vụ và xây dựng hệ thống giải pháp phù hợp và thích ứng với diễn biến, tình hình mới (năm 2019, Nghị quyết 02/NQ-CP được ban hành ngày 01 tháng 01 năm 2019 nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết 19 hàng năm của Chính phủ). Hơn nữa, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội kháo XIV và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 là khung pháp lý nhằm tạo ra những động lực và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối bản lẻ tham gia thị trường và đạt hiệu quả cao hơn trong bối cảnh mới.
Về phía Bộ Công Thương, việc triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong cuộc đua tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường nội địa, đặc biệt là các chương trình, hoạt động quảng bá cho doanh nghiệp Việt, hàng Việt đã hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước từng bước xây dựng được thương hiệu, tạo lập vị thế trong lĩnh vực phân phối bán lẻ trên thị trường trong nước. Các chương trình cụ thể như: Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo giai đoạn 2019-2020; Chương trình mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018 – 2020; - Đề án phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến năm 2020. Đặc biệt là Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động và triển khai từ năm 2009, nhờ đó sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước đã khẳng định chất lượng, giữ được chỗ đứng tại các kênh phân phối bán lẻ truyền thống và hiện đại
Cụ thể hơn, nhằm triển khai hiệu quả Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ năm 2018 Bộ Công Thương đã ban hành một số văn bản để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi phân phối sản phẩm Việt tại thị trường trong nước. Theo đó, công tác hỗ trợ doanh nghiệp và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị trong và ngoài nước được chú trọng, nội dung các hoạt động gồm: tổ chức các khóa đào tạo nâng cao trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất chuyên biệt; liên kết sản xuất, kinh doanh; phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường; tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; thực hiện các thủ tục về sản xuất thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng
2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA EVFTA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ, THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức được ký kết vào ngày 30/6/2019 và sẽ có hiệu lực thực thi trong thời gian tới khi quốc hội hai bên phê chuẩn. Cùng với CPTPP, EVFTA mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam phát triển thương mại, dịch vụ và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. EVFTA được đánh giá là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với sự mở cửa toàn diện, sâu rộng và có tác động mạnh tới nền kinh tế, thương mại Việt Nam cũng như các nước thành viên.
Về cấu trúc, EVFTA có sự khác biệt đáng kể so với các hiệp định thương mại tự do trước đây mà Việt Nam đã ký kết. Nếu các hiệp định trước đây chỉ có tiêu chuẩn trung bình và chủ yếu tập trung vào việc cắt giảm thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ nhưng không vượt quá cam kết trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì với EVFTA, cam kết mở cửa thị trường lên tới hơn 99% số dòng thuế và kim ngạch thương mại, thuế suất 0% được áp dụng cho các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của cả hai bên.
Về lộ trình, sau 07 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Nhờ đó sẽ mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có thế mạnh của hai bên như: dệt may, giày dép, nông thủy sản, đồ gỗ của Việt Nam và máy móc, thiết bị, ô tô xe máy, một số loại nông sản của EU…
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cam kết của hai bên đều đi xa hơn cam kết trong khuôn khổ WTO. Các doanh nghiệp EU sẽ được hưởng ưu đãi hơn khi đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực mà các doanh nghiệp EU có thế mạnh như dịch vụ tài chính ngân hàng, phân phối, vận tải,... Riêng đối với dịch vụ phân phối, Việt Nam đồng ý bỏ yêu cầu kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) sau 05 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tuy nhiên vẫn bảo lưu quyền thực hiện quy hoạch hệ thống phân phối trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Ngoài những cam kết trên, còn có những vấn đề Việt Nam chưa từng cam kết như: Đầu tư (cả trong sản xuất và dịch vụ), chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, lao động, môi trường… Trong EVFTA, Việt Nam và EU cũng thống nhất các nội dung liên quan tới thủ tục hải quan, SPS, TBT, phòng vệ thương mại… tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên hợp tác, tạo thuận lợi cho xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp. Những cam kết về dịch vụ - đầu tư, mua sắm chính phủ cũng như những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh vực cụ thể cũng tạo cơ hội cho doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của các thành viên trong EVFTA tiếp cận được thuận lợi hơn thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam, tạo điều kiện để người tiêu dùng Việt Nam tiếp cận sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao…
Có thể khẳng định, tiềm năng của EVFTA sẽ là rất lớn, đem lại lợi ích cho người dân và cộng đồng kinh tế cả hai bên. EVFTA sẽ có những tác động tích cực, mang đến cơ hội thuận lợi để Việt Nam tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư quy mô lớn trong các lĩnh vực với các dự án có hàm lượng giá trị gia tăng cao, công nghệ tiên tiến… Đối với lĩnh vực phân phối, EVFTA sẽ thúc đẩy các luồng vốn chất lượng cao của EU và các đối tác khác vào Việt Nam, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng của thương mại trong nước. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Việt Nam, EVFTA cũng có những tác động tiêu cực, tạo ra những thách thức lớn đối với doanh nghiệp phân phối trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp phân phối có quy mô nhỏ và vừa nếu bộ phận doanh nghiệp này không thay đổi để thích ứng trước những tác động mạnh mẽ của EVFTA.
Tác động tích cực: Những quy định cụ thể về mở cửa thị trường và biện pháp kỹ thuật trong một số lĩnh vực sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của EU tiếp cận được thuận lợi hơn thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam. Thị trường trong nước có cơ hội tiếp cận và hấp thụ nguồn vốn đầu tư lớn, công nghệ quản lý tiên tiến, hiện đại trong các hoạt động thương mại từ các nước EU, cơ sở hạ tầng thương mại, đặc biệt là hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ sẽ được hiện đại hóa, đồng thời giúp các doanh nghiệp, người tiêu dùng trong nước được tiếp cận nguồn cung các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao từ EU trong các lĩnh vực. Thực tế thời gian qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là động lực quan trọng để Việt Nam đạt các kết quả đáng ghi nhận về thương mại và tăng trưởng kinh tế nói chung. Khu vực FDI đóng góp khoảng 18% GDP của Việt Nam, gần một phần tư tổng đầu tư toàn xã hội, hai phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo ra hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những chỉ đem lại vốn đầu tư mà cả các công nghệ tiên phong, năng lực quản lý và kiến thức thị trường cho Việt Nam, góp phần nâng tầm cho các ngành kinh tế và tăng trưởng năng suất.
Trong lĩnh vực thương mại trong nước, thông qua thực thi các EVFTA, thương mại trong nước sẽ được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ. Đóng góp của thương mại trong nước vào tăng trưởng GDP chung của cả nước sẽ ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc cung ứng, tiêu thụ hàng hóa, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ vừa qua, hoạt động thương mại trong nước hàng năm tạo ra giá trị khoảng 14-15% GDP, hỗ trợ tích cực cho công tácgiải quyết việc làm khi thu hút khoảng 6 - 7 triệu lao động (chiếm hơn 12% tổng lao động toàn xã hội), góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Dưới tác động của việc thực thi các cam kết hội nhập, hoạt động lưu thông hàng hóa trong nước liên tục gia tăng về quy mô và tốc độ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2019 đạt 4,49 triệu tỷ đồng, gấp gần 3 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2019 đạt 12,75%/năm.
Tiếp cận với công nghệ tiên phong từ các nền kinh tế thành viên của các hiệp định thông qua hoạt động đầu tư, trao đổi thương mại, các chủ thể trên thị trường trong nước có nhiều cơ hội để đổi mới hoạt động kinh doanh, quản trị doanh nghiệp của mình. Thời gian qua, các hình thức bán hàng và phương thức kinh doanh thương mại và dịch vụ trên thị trường trong nước đã phát triển đa dạng, phong phú hơn và thương mại điện tử cũng ngày càng trở thành một kênh phân phối quan trọng.
Tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực, thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường phân phối của Việt Nam sẽ gặp nhiều thách thức và chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa theo cam kết của EVFTA, đó là sự gia tăng áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, hệ thống chính sách, pháp luật có thể không theo kịp biến động của thị trường, cơ sở hạ tầng và pháp luật quản lý đối với thương mại điện tử có sự chênh lệch với các nước, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong lưu thông hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nội địa, khó khăn trong việc cân đối giữa phát triển kinh tế, thương mại, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
- Cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp phân phối trong nước với năng lực hạn chế hơn so với các doanh nghiệp phân phối lớn đến từ các nước thuộc EU vốn đã có tiềm lực rất mạnh, do đó có thể dẫn đến khả năng các doanh nghiệp phân phối trong nước dễ bị thâu tóm, chiếm lĩnh thị phần bởi các doanh nghiệp nước ngoài.
- Thời gian để triển khai và thực thi các cam kết tại các FTA thế hệ mới nói chung và EVFTA nói riêng đang là lực cản lớn đối với Việt Nam. Với các FTA thông thường, tổng thời gian thực thi tất cả các cam kết kéo dài 10 năm. Với EVFTA, Việt Nam sẽ phải thực hiện các cam kết chỉ trong 5 - 7 năm, trong đó nhiều điều khoản sẽ phải thực hiện ngay sau khi hiệp định có hiệu lực, nhiều thỏa thuận sẽ phải thực hiện sau 2 - 3 năm. Trong khi, trình độ phát triển của Việt Nam vẫn đang mở mức trung bình và thấp, do đó việc thực thi các cam kết EVFTA cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác thuộc EVFTA, lúc đó sẽ không còn khái niệm “sân nhà”. Điều này cho thấy thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước đối tác trên chính thị trường nội địa. Đặc biệt, đối với những nhóm ngành hàng mà Việt Nam có sức cạnh tranh yếu như: nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và một số ngành dịch vụ sẽ gặp không ít những thách thức.
- Với mức độ mở cửa tự do hóa sâu hơn, các lĩnh vực còn thiếu, còn yếu của Việt Nam như: Giao thông vận tải, đào tạo nguồn nhân lực, lao động kỹ thuật có tay nghề cao… hay trong lĩnh vực thương mại nội địa với hệ thống phân phối có sự tham gia chủ yếu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước sẽ khó có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi phân luồng đầu tư từ nước ngoài với dòng vốn mạnh mẽ đổ vào trong nước, cạnh tranh cao sẽ gây sức ép đối với các doanh nghiệp.
- Sự kết nối giữa các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa trong nước còn yếu, các doanh nghiệp trong nước chủ yếu hướng nội nên kết nối giữa hai phân đoạn thị trường này còn rất hạn chế. Theo đó, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể sẽ hoạt động riêng lẻ thay vì đóng vai trò chung làm xúc tác tăng trưởng, do vậy tác động lan tỏa đến khu vực tư nhân trong nước sẽ hạn chế.
3. Cơ hội, khó khăn và thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước trước bối cảnh thực thi EVFTA
- Cơ hội: Theo báo cáo của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsel, tại khu vực châu Á, trong thời gian gần đây, thị trường bán lẻ Việt Nam là một trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao. Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi như thu nhập bình quân đầu người đang tăng, kinh tế vĩ mô đang đà phát triển và việc ký kết thêm EVFTA... đã, đang và sẽ mang lại những điểm sáng nhất định cho kinh tế nói chung và thị trường bán lẻ nói riêng, là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và toàn cầu.
Cơ hội tăng cường lưu thông hàng hóa trong nước thông qua việc mở rộng quy mô và mạng lưới kinh doanh của các nhà bán lẻ nước ngoài bởi họ sẽ tìm kiếm các nước cùng trong một khu vực có vị trí gần kề như Thái Lan, Campuchia và Việt Nam để phát triển thị trường. Hàng hóa tập trung tại một nước và vận chuyển qua các nước lân cận sẽ nhanh và rẻ hơn nhiều so với việc vận chuyển qua các nước khác khu vực, hơn nữa vận chuyển hàng hóa giữa các nước liền kề này thì thuế suất rất thấp hoặc không có thuế. Quy mô thị trường trong nước còn nhiều dư địa phát triển so với các nước trong khu vực và đó chính là khoảng trống để các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam mở rộng thị phần. Cùng với nhiều lợi thế khác về nguồn hàng, sự am hiểu văn hóa tiêu dùng… doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển.
Nhìn chung, thông qua hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, việc mở cửa thị trường bán lẻ sẽ đem lại cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cơ hội:
(1) Cơ hội cho các doanh nghiệp phân phối Việt Nam tiếp cận các tiêu chuẩn cao hơn về hàng hóa trong nước cũng như tổ chức cung ứng những nguồn hàng chất lượng cao hơn được nhập khẩu từ các nước thành viên của EU.
(2) Các doanh nghiệp phân phối Việt Nam có cơ hội tiếp cận các luồng vốn chất lượng cao đầu tư trực tiếp từ các nước vào hệ thống phân phối của Việt Nam, từ đó có thể nâng cao năng lực trong hoạt động kinh doanh trên thị trường trong nước.
(3) Các doanh nghiệp phân phối trong nước có cơ hội học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp thu những phương thức kinh doanh hiện đại, thúc đẩy sự sáng tạo và nâng cao chất lượng dịch vụ. Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài chủ yếu hướng vào khai thác thị trường Việt Nam thông qua các phương thức bán lẻ hiện đại làm cho thị trường bán lẻ Việt Nam thêm năng động và hội nhập vào xu hướng thị trường quốc tế..., mang lại xung lực mới cho sự phát triển ngành bán lẻ Việt Nam.
- Khó khăn:
Nền kinh tế Việt Nam có tới 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong số đó có tới hơn 60% là doanh nghiệp siêu nhỏ, trong lĩnh vực bán lẻ, tỷ lệ này chắc chắn còn cao hơn, nghĩa là tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp hoạt động trong bản lẻ là siêu nhỏ. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có năng lực hạn chế về vốn, hạ tầng kinh doanh cơ bản và công nghệ quản lý, chất lượng lao động và khả năng kết nối thị trường ... cụ thể:
Các doanh nghiệp bán lẻ nhỏ và vừa gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh như khả năng tiếp cận với nguồn vốn, mức thuế và phí cao, thủ tục hành chính và các chi phí khác để tiếp cận đất đai khi mở chuỗi siêu thị, chi phí xin cấp phép xây dựng, xin cấp phép dựng biển quảng cáo, thuê mặt bằng kinh doanh cao do giá bất động sản cao.
Các doanh nghiệp, hàng hóa Việt Nam gặp khó khăn khi tham gia vào chuỗi phân phối của các siêu thị nói chung và siêu thị nước ngoài nói riêng. Ngoài việc phải trải qua một quy trình phức tạp về thủ tục, các nhà cung cấp phải trả hàng loạt phí như: phí trưng bày, phí mở mã, quầy kệ, phí marketing, thưởng doanh số… Tổng các loại chiết khấu từ 20- 30% giá bán.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn khác như sự lạc hậu, không đồng bộ về hạ tầng thương mại nói chung và bán lẻ nói riêng, các chi phí về logictis còn tốn thời gian và chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
Bên cạnh đó, nhận thức, trình độ lực lượng lao động của các doanh nghiệp trong hệ thống phân phối của Việt Nam còn hạn chế, sự thiếu hụt về đội ngũ các nhà quản lý, điều hành chuyên nghiệp tại các cơ sở kinh doanh truyền thống và hiện đại, ảnh hưởng tới độ hấp dẫn của thị trường phân phối Việt Nam, nếu tình trạng kéo dài thì không dễ khắc phục.
- Thách thức:
+ Thách thức do phải cạnh tranh với các doanh nghiệp phân phối nước ngoài cùng với nguồn hàng hóa nhập khẩu vào trong nước: Các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ nhiều nguồn khác với giá cả phải chăng và chất lượng/mẫu mã tốt hơn, nay thực hiện EVFTA, thị trường trong nước bắt buộc phải tiếp tục mở cửa thêm cho hàng nhập khẩu từ các nước EU, điều nay sẽ lại càng tạo thêm áp lực cho các doanh nghiệp trong nước. Dự báo, tác động của EVFTA đối với nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường các nước thành viên EVFTA trong giai đoạn 2020 - 2030 ước tính sẽ đạt khoảng gần 3,0 tỷ USD. Nhóm hàng hóa Việt Nam tăng nhập khẩu nhiều nhất từ EU là phương tiện và thiết bị vận tải với mức tăng là hơn 200 triệu USD, chiếm 12% tổng giá trị gia tăng nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường các nước thành viên trong EVFTA. Tuy nhiên, gia tăng nhập khẩu sẽ không tập trung vào thời điểm ngay sau khi EVFTA có hiệu lực vì Việt Nam có lộ trình xoá bỏ thuế dài, từ 7-10 năm.
+ Thách thức khi phải thực hiện các cam kết trong EVFTA về mở cửa thương mại, dịch vụ: So với các hiệp định FTA trước, Việt Nam có nhiều cam kết mở cửa hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thành viên EVFTA, điều đó cũng đồng nghĩa việc cam kết mạnh hơn về các cơ chế giải quyết tranh chấp. Điều này càng gây ra áp lực cạnh tranh cho các nhà cung cấp dịch vụ, bao gồm cả các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần phân phối trong nước vốn có năng lực cạnh tranh tương đối hạn chế.
+ Thách thức khi đối diện với làn sóng thâu tóm, mua bán và sáp nhập (M&A): Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng có vốn nhỏ, trình độ quản lý chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh. Những điều kiện trên càng đẩy mạnh xu thể tìm kiếm những kênh huy động vốn hiệu quả nhằm mục tiêu ổn định và mở rộng sản xuất, kinh doanh; và sáp nhập hợp nhất, mua lại doanh nghiệp chính là một hình thức huy động vốn đáp ứng được nhu cầu này. Xu hướng này lại càng có cơ sở khẳng định khi nhiều tập đoàn nước ngoài đã công khai kế hoạch thâm nhập thị trường Việt Nam bằng M&A thay cho đầu tư trực tiếp (FDI), chọn M&A như một chiến lược thâm nhập thị trường nội địa nhanh nhằm tận dụng hệ thống phân phối, cơ sở vật chất, mạng lưới chi nhánh và nguồn nhân lực sẵn có của các doanh nghiệp trong nước, trong khi đónhiều tập đoàn trong nước lại đang có chiến lược thâu tóm các doanh nghiệp nhỏ, nhiều công ty lại công khai kế hoạch bán công ty con...
Trong lĩnh vực phân phối, đối với các doanh nghiệp trong nước, do nhu cầu về vốn rất lớn cũng như kỳ vọng tăng cường năng lực phân phối, các doanh nghiệp này sẵn sàng mở ra, mời đối tác có cùng ngành nghề, cùng chuyên môn, cùng định hướng để tiếp tục đầu tư, phát triển một cách nhanh và bền vững hơn, tiếp cận công nghệ từ nước ngoài để hai bên cùng có lợi. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phân phối của nước ngoài, với sức mạnh về vốn và công nghệ quản lý, ý đồ của họ khá rõ ràng, đó chính là từng bước thâm nhập thị trường mới, nhiều tiềm năng, chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt thúc đẩy xuất khẩu thông qua mạng lưới phân phối của mình vào thị trường mới và trong định hướng tạo ra và khai thác các thị trường mới, M&A là con đường ngắn và nhanh nhất để sở hữu thị phần, chuỗi cung ứng bán lẻ đang hoạt động và số lượng khách hàng hiện có của các doanh nghiệp trong nước.
+ Thách thức khi phải liên tục thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và kinh tế số: việc chuyển đổi và số hóa các hệ thống thông tin liên quan hoạt động kinh doanh và quản trị các tập khách hàng trong thời đại công nghệ thông tin không ngừng phát triển là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, hạ tầng thông tin và năng lực chuyển đổi số của các doanh nghiệp vẫn còn ở mức hạn chế so với các doanh nghiệp phân phối nước ngoài, đây cũng là lực cản rất lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
4. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý
Với những phân tích, đánh giá về tác động của EVFTA tới các doanh nghiệp và thị trường trong nước, thời gian tới, để tận dụng tối đa tiềm năng của EVFTA, về phía các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện một số nhóm giải pháp, nhiệm vụ cơ bản sau:
(1) Nghiên cứu nội luật hóa các cam kết của EVFTA để triển khai một cách có hiệu quả;
(2) Tăng cường các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháo gỡ những khó khăn về logictics hỗ trợ phát triển thương mại;
(3) Đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính; tạo sự liên thông giữa các Bộ, ngành để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh;
(4) Hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả của thu hút đầu tư nước,… không chỉ đơn thuần là mua nguyên liệu từ một nước, sau đó đưa vào Việt Nam để gia công rồi xuất đi để hưởng ưu đãi thuế quan như các dự án FDI thời gian qua;
(5) Xây dựng các biện pháp bảo vệ doanh nghiệp nội địa theo hướng trọng tâm vào việc tạo lập các “hàng rào kỹ thuật”, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài, không để doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế tiếp cận nguồn lực kinh doanh nhiều hơn doanh nghiệp nội địa;
(6) Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền về các quy định theo cam kết của EVFTA, cung cấp thông tin dự báo thị trường cho các doanh nghiệp liên quan đến thị trường các nước tham gia EVFTA.
5. Một số khuyến nghị đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực phân phối
Để hạn chế những tác động tiêu cực và tận dụng các cơ hội mới do EVFTA mang lại, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước cần tập trung thực hiện một số công việc sau:
(1) Nghiên cứu kỹ những nội dung, các quy tắc nội khối để có sự chuẩn bị sẵn sàng trong việc tận dụng những cơ hội có được từ EVFTA;
(2) Chuẩn bị và nâng cao khả năng xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước...;
(3)Tăng cường liên kết và hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để tận dụng công nghệ, quản lý và cả thị trường để tăng cường khả năng tham gia vào chuỗi giá trị, liên kết, hợp tác với các nhà sản xuất, tạo mối quan hệ thân thiện, tín nhiệm và tin cậy đối với khách hàng qua việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi cung ứng trong nước/khu vực/toàn cầu để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường;
(4) Tăng cường quản trị chiến lược doanh nghiệp, thực hiện hiệu quả việc xây dựng, điều chỉnh chiến lược, cơ cấu kinh doanh phù hợp với điều kiện thị trường trong nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng;
(5) Nâng cao chất lượng dịch vụ bán lẻ trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng công nghệ bán lẻ hiện đại, phương thức quản trị kinh doanh tiên tiến;
(6) Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và marketing sản phẩm, tích hợp dữ liệu thông tin về người tiêu dùng cả offline và online để quản trị quan hệ khách hàng (CRM) hiệu quả;
(7) Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp qua mạng, trên các kênh internet, điện thoại di dộng, mạng xã hội;
(8) Nhanh chóng triển khai thực hiện việc xác định và hoàn thiện chỉ dẫn địa lý, nguồn gốc xuất xứ các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam để tận dụng cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên trong các FTA;
(9) Thực hiện đa dạng hóa và phát triển bán lẻ đa kênh nhằm tránh rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh;
(10) Cần xây dựng kênh kiểm soát thông tin, tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh nói chung và sáp nhập, hợp nhất, mua lại nói riêng. Doanh nghiệp nên nghiên cứu chuẩn bị đầy đủ thông tin theo yêu cầu của luật pháp, có sự tham vấn với cơ nên chức năng trước khi tiến hành sáp nhập, hợp nhất hay mua lại đặc biệt là về thủ tục thông báo, xin hưởng miễn trừ, xác định thị phần của doanh nghiệp tham gia…;
(11) Chuẩn bị sẵn sàng vượt qua các hàng rào kỹ thuật về kiểm dịch, môi trường, an toàn thực phẩm, lao động và công đoàn,…;
(12) Doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị sẵn sàng cho các vấn đề phát sinh liên quan đến phòng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ và các phát sinh khác liên quan đến những cam kết mới, phi truyền thống;
(13) Chú trọng phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh bán lẻ 4.0;
(14) Tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, người tiêu dùng về bảo vệ môi trường, bảo vệ an toàn, sức khỏe cộng đồng, cải thiện chất lượng cuộc sống…/.
Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo báo cáo của các Sở Công Thương các địa phương, tỷ lệ hàng Việt tại các siêu thị vẫn được duy trì ở mức cao (trên 80%): Co.opmart (90-93%), Satra (90-95%), Vinmart (96%), Vissan (95%), Hapro (95%)…); Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ siêu thị nước ngoài chiếm từ 65% đến 95%, cụ thể: Lotte, Big C (90%), AEON - Citimart (82-85%), Auchan (65%), TTTM Emart (96%), TTTM Saigon Centre (68%)…; Tỷ lệ hàng Việt tại các chợ truyền thống, cửa hàng tiện lợi chiếm tỷ lệ từ 60% trở lên.
Văn bản số 10050/BCT-TTTN ngày 11/12/2018 của Bộ Công Thương hướng dẫn doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi phân phối sản phẩm Việt tại thị trường trong nước; Công văn số 4012/BCT-TTTN ngày 06 tháng 6 năm 2019 gửi Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam về việc hướng dẫn doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi phân phối sản phẩm Việt Nam tại thị trường trong nước năm 2019, thông báo một số hoạt động kết nối cung cầu hàng hóa do Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hiệp hội ngành hàng/ngành nghề, một số địa phương nhằm hỗ trợ hàng hóa của doanh nghiệp hiện bền vững tại kênh phân phối trong nước.
Nguồn: Văn phòng Bộ Công Thương
Thông tin được cung cấp bởi Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương
-
Chính phủ Nhật Bản đã dỡ bỏ tình trạng khẩn cấp và phê duyệt gói kích thích thứ hai trị giá 1,1 nghìn tỷ đô la Mỹ (USD), nâng tổng số cam kết để cứu nền kinh tế khỏi khủng hoảng lên khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội.
-
Số liệu của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho thấy, 4 tháng đầu năm xuất khẩu cua ghẹ của Việt Nam đạt 44,5 triệu USD, tăng gần 40% so với 2019. Top các thị trường nhập khẩu chính cua ghẹ của Việt Nam là Trung Quốc, Nhật, Mỹ, EU.
-
Mô tả mặt hàng: Than (Úc), GAR nhiệt, Giá FOB cầu tàu, cảng Newcastle / Port Kembla, loại 6.300 kcal / kg (11.340 btu / lb), dưới 0,8% lưu huỳnh, 13% tro.
-
Mô tả: Là chỉ số giá trung bình của ba loại giá dầu giao ngay gồm: Brent, West Texas Intermediate và Dubai Fateh